Đề tài Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của Nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

J.M. Keynes sinh ngày 05 tháng 6 năm 1883 tại Cambridge (Anh) trong một gia đình có văn hoá và được chăm sóc đầy đủ. Bố ông là John Neville Keynes, làm giảng viên trường đại học Cambridge, dạy môn logic và kinh tế chính trị học. Mẹ ông tên là Florence Ada, một trong những người phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp trường đại học Newham. Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên trở thành cố vấn cho thị trưởng Cambridge. Năm 1932, bà được bầu làm thị trưởng và nổi tiếng về chủ nghĩa nữ quyền. Năm 14 tuổi, ông vào trường đại học Eton, một trường chuyên đào tạo ra những nhân vật ưu tú của nước Anh. Khi học ở đây, ông đạt toàn điểm ưu nên năm 1902, ông được chuyển về học tại Học viện Hoàng gia thuộc trường Đại học Cambridge và học chuyên về môn toán. Sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục ở lại trường Cambridge học thêm triết học và kinh tế học. Năm 1906, ông vào làm việc ở Bộ Sự vụ Ấn Độ của Chính phủ trong 2 năm. Năm 1908, ông nhận lời mời của A. Marshall về làm việc tại Học viện hoàng gia thuộc trường đại học Cambridge, giảng dạy nguyên lý kinh tế chính trị học và lý luận về tiền tệ, cùng năm đó, ông biên soạn cuốn sách: "Bàn về sắc suất", nhờ đó ông trở thành cán bộ nghiên cứu của Học viện hoàng gia của trường. Từ đó về sau, ông vừa giảng dạy ở trường Đại học Cambridge, vừa phục vụ Chính phủ hoặc giới tài chính tiền tệ cho đến năm 1942.

doc19 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11139 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của Nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG SƠ LƯỢC Đề tài : Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay Chương 1. Sơ lược về lý thuyết của Keynes. 1.1. Tiểu sử của Keynes. 1.2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của lý thuyến Keynes. 1. 2.1. Hoàn cảnh ra đời . 1. 2.2. Những đặc điểm cơ bản của trường phái Keynes. Chương 2. Lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước 2.1. Chính sách đầu tư 2.2. Chính sách tài chính tín dụng ,tiền tệ và thuế khóa Chính sách tạo việc làm Khuyến khích tiêu dùng cá nhân Chương 3. Sự vận dụng ở nước ta hiện nay về lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2007- 2008 với các gói giải cứu và kích thích kinh tế theo Keynes 3.2.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam và các gói kích cầu ở Việt Nam theo nguyên tắc của Keynes 3.2.1.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam 3.2.2.Các gói kích cầu 3.2.2.1.Tác động tích cực của các gói kích cầu 3.2.2.2.Tác động tiêu cực của các gói kích cầu 3.2.2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các gói kích cầu MỞ ĐẦU Trong hệ thống tư tưởng , trường phái kinh tế , nhiều nhà lý luận đã đề cập đến vai trò kinh tế của nhà nước .Trong số họ , Keynes là người đăc biệt đề cao vai trò kinh tế của nhà nước thông qua các chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước .Lý luận này của ông trở thành cơ sở quan trọng cho việc phát huy vai trò kinh tế của nhà nước trong điều kiện hiện nay . Ở nước ta , sau đại hội VI ( 12/1986 ) đường lối đổi mới toàn diện kinh tế ,xã hội đã nhanh chóng được thực hiện .Một trong những nội dung đổi mới quan trọng nhất là đổi mới cơ chế kinh tế : Chuyển từ có cơ chế tập trung , quan liêu bao cấp sang cơ chế tập trung nhưng có sự quản lý vĩ mô của nhà nước .Do đó ,việc nghiên cứu lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước .Do vậy chúng tôi đã thực hiện đề tài “lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay . Chương 1: Sơ lược về lí thuyết của keynes 1.1.Tiểu sử của Keynes J.M. Keynes sinh ngày 05 tháng 6 năm 1883 tại Cambridge (Anh) trong một gia đình có văn hoá và được chăm sóc đầy đủ. Bố ông là John Neville Keynes, làm giảng viên trường đại học Cambridge, dạy môn logic và kinh tế chính trị học. Mẹ ông tên là Florence Ada, một trong những người phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp trường đại học Newham. Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên trở thành cố vấn cho thị trưởng Cambridge. Năm 1932, bà được bầu làm thị trưởng và nổi tiếng về chủ nghĩa nữ quyền. Năm 14 tuổi, ông vào trường đại học Eton, một trường chuyên đào tạo ra những nhân vật ưu tú của nước Anh. Khi học ở đây, ông đạt toàn điểm ưu nên năm 1902, ông được chuyển về học tại Học viện Hoàng gia thuộc trường Đại học Cambridge và học chuyên về môn toán. Sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục ở lại trường Cambridge học thêm triết học và kinh tế học. Năm 1906, ông vào làm việc ở Bộ Sự vụ Ấn Độ của Chính phủ trong 2 năm. Năm 1908, ông nhận lời mời của A. Marshall về làm việc tại Học viện hoàng gia thuộc trường đại học Cambridge, giảng dạy nguyên lý kinh tế chính trị học và lý luận về tiền tệ, cùng năm đó, ông biên soạn cuốn sách: "Bàn về sắc suất", nhờ đó ông trở thành cán bộ nghiên cứu của Học viện hoàng gia của trường. Từ đó về sau, ông vừa giảng dạy ở trường Đại học Cambridge, vừa phục vụ Chính phủ hoặc giới tài chính tiền tệ cho đến năm 1942. Năm 1909, ông sáng lập ra câu lạc bộ kinh tế chính trị học và đạt giải thưởng Adam Smith do viết cuốn "Phương pháp xây dựng chỉ số". Trong suốt thời gian dài từ năm 1911 đến 1944, ông kiêm chức chủ nhiệm "Tạp chí kinh tế" của Hiệp hội kinh tế Hoàng gia. Từ năm 1913 đến 1914, ông giữ chức thư ký uỷ ban tiền tệ và tài chính Ấn Độ của hoàng gia. Năm 1914, nước Anh bước vào cuộc chiến, ông trở thành một chuyên gia tin cậy của Sở kho bạc, ông đã hoạt động cuồng nhiệt đến kiệt sức để giải quyết vấn đề cấp tài chính cho chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông chuyển từ luôn luôn được trọng dụng và đề bạt. Năm 1919 là trưởng đoàn đại biểu tài chính tham dự Hội nghị Hoà ước Versailles ở Paris, nhưng do ý kiến bất đồng, nên ông tách khỏi đoàn đại biểu Anh. Sau khi về Cambridge, với nỗ lực bản thân, ông thành lập "Hệ kinh tế học đo lường". Từ năm 1921 đến năm 1938, ông hoạt động đầu tư tiền tệ và trở thành thương gia giàu có, đồng thời kiêm chức Hội đồng quản trị Công ty Hỗ trợ bảo hiểm nhân thọ toàn quốc. Năm 1925, ông kết hôn với nữ diễn viên chính Liubovskaia của đoàn ba lê Nga, sinh được 02 người con. Năm 1930, ông giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban cố vấn kinh tế nội các. Trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông lại là thành viên chủ yếu của Uỷ ban tư vấn của Bộ Tài chính, trở thành nhân vật có tác dụng hết sức quan trọng của giới tài chính Anh trong thời chiến. Từ năm 1941 trở đi, ông công tác tại Ngân hàng Anh. Năm 1942, ông được phong làm nam tước Tilton (Lord Keynes of Tilton). Năm 1944, ông dẫn đầu đoàn đại biểu của Anh đến Mỹ tham dự Hội nghị tài chính tiền tệ quốc tế, trong hội nghị này, ông đã có tác dụng rất quan trọng, ông đã tích cực vạch kế hoạch lập hai tổ chức là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới về tái thiết và phát triển (tức Ngân hàng thế giới - WB ngày nay) do ông làm thống đốc. Ông mất năm 1946 do bệnh tim, thọ 63 tuổi. J.M. Keynes viết nhiều tác phẩm, tác phẩm đầu tiên "Tiền tệ và tài chính Ấn Độ", "Hậu quả kinh tế của hoà ước" năm 1919, "Thuyết cải cách tiền tệ" năm 1923, "Hậu quả kinh tế của ngài Churchill" năm 1925, "Thuyết tiền tệ" năm 1930. Năm 1926, ông phát biểu bài "Sự kết thúc của chủ nghĩa tự do thả nổi". Năm 1933, ông phát biểu bài "Con đường đi tới phồn vinh". Năm 1936, ông xuất bản cuốn "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ". Sau khi tác phẩm được công bố đã diễn ra một cuộc tranh luận kịch liệt, những người tranh luận đều công nhận phương pháp tư tưởng mới của ông. "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ" diễn đạt toàn diện nhất tư tưởng kinh tế của Keynes. Giới kinh tế học phương Tây đánh giá quyển sách đã dẫn đến một cuộc cách mạng của Keynes trong kinh tế học. J.M. Keynes được các học giả phương Tây coi là người có tính sáng tạo, ông là nhà kinh tế học cả ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các Chính phủ. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, ở các nước phương Tây, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng. Lý thuyết kinh tế của trường phái cổ điển và trường phái tân cổ điển, mà nội dung cơ bản của nó là sự điều tiết của cơ chế thị trường sẽ đưa nền kinh tế đến sự cân bằng, không cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế đã không thể giúp ích cho việc khắc phục khủng hoảng và thất nghiệp. Lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế phũ phàng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đặc biệt một cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 - 1933 đã làm tan rã tư tưởng tự do kinh tế. Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hoá sản xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế, lý thuyết kinh tế "Chủ nghĩa tư bản có điều tiết" ra đời, sáng lập ra nó là John Maynard Keynes. Sau khi Keynes mất, làm thế nào để kế thừa và phát triển tư tưởng của Keynes, các nhà kinh tế học theo học thuyết Keynes đều đưa ra sự kiến giải của mình, đặc biệt là sau khi áp dụng rộng rãi học thuyết Keynes đã nảy sinh hàng hoạt vấn đề mới, nạn thất nghiệp và lạm phát xảy ra cùng một lúc, mỗi người một ý, tranh cãi liên miên và hình thành cái gọi là "học thuyết hậu Keynes", "học thuyết Keynes mới", "học thuyết Keynes hiện đại". Việc sửa đổi, bổ sung lý thuyết của Keynes chủ yếu biểu hiện: Phát triển việc phân tích trạng thái tĩnh, ngắn hạn sang phân tích trạng thái động, dài hạn; lấy phân tích quá trình bổ sung cho việc phân tích bình quân; lấy nguyên lý gia tốc bổ sung cho nguyên lý số nhân; đưa ra các loại thuyết giao động kinh tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể hoá các chính sách kinh tế; phác hoạ ra con đường tăng trưởng ổn định. 1.2.Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của lí thuyết keynes 1.2.1. Hoàn cảnh ra đời Vào những năm 30 của thế kỉ hai mươi tình hình kinh tế chính trị thế giới cũng như ở nước Anh có nhiều biến đông lớn .Chủ nghĩa tư bản phát triển một cách nhanh chóng ,lực lượng sản xuất phát triển mạnh cả về quy mô trình độ với tính xã hội hóa ngày càng cao.Với sự phát triển mạnh mẽ đó của chủ nghĩa tư bản thì đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. các mâu thuẫn kinh tế xã hội diễn ra ngày càng gay gắt .Khủng hoảng kinh tế , thất nghiệp lạm phát xảy ra và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.. Điều này đã chứng tỏ “học thuyết tự điều chỉnh”của trường phái cổ điển mới,lý thuyết bàn tay vô hình của A.smith ,và cân bằng tổng quát của walras đã không còn phù hợp với tình hình mới nữa . Trước những hàng loạt các vấn đề của kinh tế thị trường ,chủ nghĩa tư bản đứng trước nguy cơ sụp đổ . Điều này được đặt ra nhu cầu thực tiễn là phải có một học thuyết kinh tế mới ra đời để bảo vệ chủ nghĩa tư bản đang gặp rất nhiều khó khăn.,giúp chủ nghĩa tư bản thoát khỏi khủng hoảng . Cuối cùng là sự thành công của lý thuyết mark và nền kinh tế kế hoạch hóa trong thực tiễn ở liên xô vừa bắt bắt buộc vừa tạo tiền đề cho các nhà tư sản nghĩ tới sự can thiệp nhiều hơn của nhà nước vào nền kinh tế . Tất cả những hoàn cảnh đó đã dần tới sự ra đời ls thuyết của trường phái keynes 1.2.2 .Những đặc điểm cơ bản của trường phái keynes 1. 2.2.1. Đặc điểm về nội dung Thứ nhất , đối lập với lí thuyết của trường phái cổ điển keynes không ủng hộ quan điểm tự do kinh tế về sự cân bằng của nền kinh tế dựa trên sự tự điều tiết của thị trường mà không có sự can thiệp của nhà nước . Ông cho rằng sự khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ngày càng trầm trọng không phải là hiện tượng nội sinh của chủ nghĩa tư bản mà là do thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế .Theo ông vấn đề nan giải nhất của chủ nghĩa tư bản không phải là lạm phát hay khủng hoảng mà là vấn đề thất nghiệp và việc làm.Do đó trong lý thuyết của ông tập trung giả quyết hai vấn đề chính là tăng trưởng và việc làm dựa trên cơ sở là sự điều tiết của nhà nước . Thứ hai., ông chỉ ra rằng điều kiện đảm bảo cho tái sản xuất bình thường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giải quyết khủng hoảng và thất nghiệp là đầu tư bằng tiết kiệm khuyến khích đầu tư và giảm tiết kiệm. Thứ ba ,lý thuyết của keynes là lý thuyết trọng cầu .Ông đánh giá vai trò của tiêu dùng của lĩnh vực trao đổi ,coi đây là nhiệm vụ số một mà các nhà kinh tế học phải giải quyết .Theo ông khi việc làm tăng lên thì thu nhập cũng tăng lên do đó có sự tăng lên của tiêu dùng .Tuy nhiên do khuynh hướng tâm lí nên mức tăng tiêu dùng nhỏ hơn mức tăng của thu nhập làm cho cầu có hiệu quả bị giảm xuống .Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng ,thất nghiệp trì trệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghiã.do đó muốn đảm bảo phát triển sản xuất ,cân bằng cung cầu thì phải tăng tiêu dùng ,thực hiện các biện pháp kích cầu có hiệu quả. 1.2.2.2. Đặc điểm về phương pháp luận Thứ nhất, phương pháp phân tích của keynes dựa trên cơ sở tâm lý chủ quan.Nhưng khác với trường phái cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt thì ông dựa vào tâm lý chủ quan xã hôi. Thứ hai, ngược với các nhà cổ điển mới ông phân tích nền kinh tế với những đại luợng vĩ mô có hệ thống .Theo ông việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ các tổng lượng lớn để nghiên cứu mối quan hệ giữa các tổng lượng đó và khuynh hướng chuyển biến của chúng .Trên cơ sở đó có thể rút ra những kết luận vận dụng cho từng đơn vị cá biệt trong nền kinh tế . Chương 2: Lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước 2. 1.Chính sách đầu tư Keynes cho rằng : Để thoát khỏi khủng hoảng và giải quyết việc làm thì trước hết nhà nước phải có một chương trình đầu tư lớn với hai nội dung chính: Nhà nước phải trực tiếp đầu tư vào các chưong trình công cộng bằng ngân sách nhà nước dể thu hút việc làm. Nhà nước phải thông qua các chính sách và công cụ để khuyến khích tư nhân đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước,hệ thống thu mua của nhà nước ,trợ cấp của nhà nước về tài chính tín dụng.... Mục đích của các chương trình đầu tư lớn này của nhà nước là nhằm sử dụng số tư bản nhàn rỗi và lao động thất nghiệp.Số người được tuyển vào làm việc mới khi nhận được thu nhập sẽ lại tham gia vào thị trường tiêu dùng hàng hóa .Do đó cầu hàng hóa tăng làm cho giá cả hàng hóa tăng dẫn đến hiệu quả của tư bản đầu tư cũng tăng theo. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất .Từ đó sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn giải quyết được vấn đề thất nghiệp cũng như tăng trưởng kinh tế và đẩy lùi khủng hoảng kinh tế. 2. 2.Chinh sách tài chính tín dụng ,tiền tệ và thuế khóa Theo Keynes vai trò của hệ thống tài chính tiền tệ tín dụng ,thuế là hết sức quan trọng . Đây là những công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế rất có hiệu quả . theo ông để đạt được mục tiêu sử dụng hệ thống tài chính tín dụng tiền tệ nhằm kích thích doanh nhân đầu tư thì phải tăng thêm tiền mặt vàolưu thông ,thực hiện “lạm phát có điều tiết” một mặt tăng khối lượng tiền trong lưu thông để giảm lãi suất cho vay khuyến khích doanh nhân đầu tư mở rộng sản xuất .Mặt khác lạm phát khi khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng và có lạm phát giá cả hàng hóa sẽ tăng lên do đó lợi nhuận của nhà tư bản sẽ tăng nếu chi phí chưa thay đổi .Ông chủ chương in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước hoạt động và bù dắp những thiếu hụt của ngân sách nhà nước, đây là nguồn bổ sung ngân sách cho những hoạt động đầu tư của nhà nước. Ông chủ chương sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Ông chủ chương tăng thuế đối với người lao động để tăng ngân sách nhà nước từ đó tăng đầu tư .Còn giảm thuế đối với các doanh nhân để khuyến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất. 2.3.Chính sách tạo việc làm Đối với keynes, cân bằng tiết kiệm và đâu tư không phải là vấn đề đơn giản với nền kinh tế mà được quyết định bằng nhiều yếu tố phức tạp ngoài lãi suất ra, và không có đảm bảo rằng hai yếu tố nhất thiết bằng nhau ở mức hoạt động kinh tế tạo ra việc làm vừa đủ. Keynes lập luận, thất nghiệp chỉ có thể giải quyết hiệu quả bằng việc vận dụng tổng cầu. công nhân sẵn sàng chấp nhận việc tăng giá gây ra từ tăng cầu,dựa vào mức lương danh nghĩa ổn định. Tăng nhu thế sẽ làm giảm tiền lương danh nghĩam, qua đó kích thích việc làm. Keynes xoay quanh đề xuất của phái cổ điển: việc làm không tăng, bằng cách giảm tiền lương thực tế, nhưng tiền lương thực tế giảm vì việc làm tăng do tăng tổng cầu. Keynes không xem cơ cấu kinh tế của bộ phận tư nhân như một dự phòng đảm bảo an toàn chống lại nạn thất nghiệp kéo dài. Sự cân bằng có thể tồn tại ở việc làm đủ có ít hơn. Sự tồn tại của tiền lương và giá cả thay đổi đi xuống sẽ không đảm bảo có đủ việc làm. Vì những hạn chế khác, nghĩa là những nhu cầu hình thức đầu cơ tiền mặt và hàm đầu tư, chính sách tiền tệ không hữu ich theo dự án.Keynes lập luận trên cơ sở lý thuyết của ông cho rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn để đánh thuế và chi tiêu để ảnh hưởng chu kỳ kinh doanh. Chi tiêu của chính phủ là khoản đầu tư công cộng bơm thêm vào dòng chảy thu nhập. chi tiêu của chính phủ có thế được lấy từ đánh thuế(làm giảm tiêu dùng, nhưng ít hơn số thuế đánh), bằng việc bán trái phiếu cho quỹ dự trữ liên bang, hay bằng những biện pháp khác. ảnh hưởng sinh ra từ việc làm và thu nhập của tất cả những biện pháp thay thế này phải đánh giá, và sau đó phải có hành động đạt đến sự ổn định kinh tế. Keynes không nghĩ khoản tiền đầu tư bơm vào đơn giản hay “kích thích kinh tế” là đủ.điều cần phải có là chương trình quy mô rộng và có kế hoạch trong chính sách tài chính nhiệm ý cũng tăng cường những yếu tố ổn định có sẵn(như đành thuế luỹ tiến). tóm lại, chính phủ phải sẵn sàng cung cấp điều kiện để có đủ việc làm. Thông điệp kinh tế cơ bản của Keynes đã rõ. 2.4.Khuyến khích tiêu dùng cá nhân Keynes không bất đồng việc người ta nắm tiền vì mục đích giao dịch hay nhu cầu giao dịch liên quan đến thu nhập. thế nhưng ông lập luận rằng cá nhân nắm tiền ít nhất vì lý do quan trọng khác-đầu cơ vào thị trường trái phiếu. nói cách khác, Keynes lập luận, họ nắm tiền để đầu cơ vào thị trường trái phiếu. Ông cho rằng lãi suất sẽ giảm thấp đến mức(giá trái phiếu quá cao) làm cho mọi người tin rằng trái phiếu là đầu tư không phù hợp. tóm lại, tất cả đều muốn nắm giữ nhiều tài sản bằng tiền mặt hơn, xã hội xem việc nắm giữ trái phiếu là không an toàn và nắm giữ số dư tiền mặt thay vì mục đích đầu cơ. Keynes cho rằng mặc dù lãi suất được quyết định bằng sự kết hợp các yếu tố thực và tiền tệ trong hệ thống kinh tế, sự tồn tại của nhu cầu đầu cơ tiền có nghĩa là cơ cấu qua đó tiền ảnh hưởng tới thu nhập và việc làm trong hệ thống kinh tế không giản đơn và có thể dự đoán như các nhà kinh tế học cổ điển thường nghĩ. Một trong những tác động của tiền tệ và chi tiêu, thu nhập, việc làm là thông qua ảnh hưởng của nó đối với lãi suất. lãi suất thấp khiến tiêu dùng hiện tại hấp dẫn hơn so với chi tiêu dùng kỳ hạn, nghĩa là tiết kiệm. điển hình, chính sách tiền tệ làm giảm lãi suất và bằng cách này làm tăng chi tiêu. Chương 3: Sự vận dụng ở nước ta hiện nay về lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước 3.1.Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2007-2008 với các gói giải cứu và kích thích kinh tế theo Keynes Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt đầu xảy ra từ tháng 8-2007 sau đó đã lan khắp các thị trường tài chính lớn trên thế giới. Chỉ trong vòng 12 tháng của 2008 đã làm bốc hơi trên 30 ngàn tỉ USD trong tổng số 62 ngàn tỉ USD vốn hóa toàn cầu. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới bước vào một cuộc suy thoái kinh tế được ví là nghiêm trọng nhất trong vòng gần 100 năm qua. Chính phủ các nước không thể khoanh tay đứng nhìn. Hàng loạt các gói giải cứu lên đến cả ngàn tỉ USD ở hầu khắp các nước trên thế giới đổ ra khiến cho người ta nhớ đến một nhà kinh tế vĩ đại của những năm 30 của thế kỷ trước:John Maynard Keynes . Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD của Trung Quốc, hàng trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta thấy các biện pháp để xử lý tình huống chặn đà suy giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes. Về chính sách tài khóa, các chính phủ chủ trương giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư cho các nhà sản xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở rộng các dịch vụ công và trợ cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu nội địa, đảm bảo an sinh xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm chí có thể chấp nhận cả thâm hụt ngân sách để mở rộng thị trường nội địa – một sự bù đắp khoảng sụt giảm đột ngột của thị trường xuất khẩu. Do đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp tục gia tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới điểm uốn tại đáy của cuộc khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính sách tín dụng rẻ với mức lãi suất thấp nhất so với nhiều chục năm qua, hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong chính sách tiền tệ của các quốc gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ thể tiếp cận dễ dàng các nguồn tín dụng, chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng tổng dư nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng và cầu đầu tư nội địa. Nói cách khác, với việc tiền được bơm ra như cái phao cứu sinh cho các nền kinh tế, ngay cả trong tình trạng không dễ kiểm soát, có vẻ người ta đã coi tiền tệ và tín dụng là công cụ vạn năng điều tiết nền kinh tế giống như Keynes đã quan niệm. Sự thực là các gói kích cầu đó mang lại hiệu quả rõ rệt cho các nền kinh tế. Các nền kinh tế chủ chốt bước đầu ngăn chặn được đà suy giảm tăng trưởng. Đầu tư của nhà nước và
Luận văn liên quan