Đề tài Mặt trận Việt Minh và những phong trào đấu tranh giải phong dân tộc từ 1941- 1945

Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nó đập tan xiềng xích của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ hàng thế kỉ trên đất nước ta, mở ra một kỉ nguyên mới trong đời sống của nhân dân ta, kỉ nguyuên mà nhân dân lao động đã đứmg lên làm chủ vận mệnh của mình, thiết lập nên một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một chế độ tiên tiến nhất ở Đông Dương. Góp phần vào thành công vĩ đại đó là sự lãnh đạo tài tình, khôn khéo của Đảng, trong đó sự ra đời của Mặt trận Việt Minh và những hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta từ tháng 5/1941- tháng 2/1945 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nói, giai đoạn 1941- 1945 là một giai đoạn đánh dấu sự phát triển lớn trong nhận thức và lí luận của chủ nghĩa Mac- Lênin về mặt trận và sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam của Đảng cộng sản Đông Dương. Do đó, tìm hiểu về Mặt trận Việt Minh, một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chưa từng thấy từ trước trong lịch sử, một kì công trong sự lãnh đạo giải phóng dân tộc của Đảng cộng sản Đông Dương, đặc biệt thể hiện rõ nét trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta từ 1941- 1945 nhằm làm sáng tỏ sự chuyển hướng đường lối sách lược và sự sáng tạo về một mặt trận của Đảng ta; tìm hiểu những nét độc đáo của Mậưt trận Việt Minh so với các mặt trận trước nó trong cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới trong đại chiến thế giới lần thứ hai cũng như vị trí to lớn của nó trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ 1941- 1945 và đặc biệt là đối với sự nghiệp cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc ta. Đề tài “Mặt trận Việt Minh và những phong trào đấu tranh giải phong dân tộc từ 1941- 1945” là một đề tài hay song cũng tương đối phức tạp. Hơn nữa, do trình độ nhận thức cá nhân, tài liệu tham khảo còn hạn chế, đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi bài tiểu luận cho nên, chắc chắn baì viết này của tôi vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu xót. Vì vậy, tôi rất mong được thầy cô giáo trong khoa Lịch sử giúp đỡ, bổ sung vào những chỗ thiếu xót đó để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.

doc34 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4153 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mặt trận Việt Minh và những phong trào đấu tranh giải phong dân tộc từ 1941- 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nó đập tan xiềng xích của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ hàng thế kỉ trên đất nước ta, mở ra một kỉ nguyên mới trong đời sống của nhân dân ta, kỉ nguyuên mà nhân dân lao động đã đứmg lên làm chủ vận mệnh của mình, thiết lập nên một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một chế độ tiên tiến nhất ở Đông Dương. Góp phần vào thành công vĩ đại đó là sự lãnh đạo tài tình, khôn khéo của Đảng, trong đó sự ra đời của Mặt trận Việt Minh và những hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta từ tháng 5/1941- tháng 2/1945 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nói, giai đoạn 1941- 1945 là một giai đoạn đánh dấu sự phát triển lớn trong nhận thức và lí luận của chủ nghĩa Mac- Lênin về mặt trận và sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam của Đảng cộng sản Đông Dương. Do đó, tìm hiểu về Mặt trận Việt Minh, một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chưa từng thấy từ trước trong lịch sử, một kì công trong sự lãnh đạo giải phóng dân tộc của Đảng cộng sản Đông Dương, đặc biệt thể hiện rõ nét trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta từ 1941- 1945 nhằm làm sáng tỏ sự chuyển hướng đường lối sách lược và sự sáng tạo về một mặt trận của Đảng ta; tìm hiểu những nét độc đáo của Mậưt trận Việt Minh so với các mặt trận trước nó trong cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới trong đại chiến thế giới lần thứ hai cũng như vị trí to lớn của nó trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ 1941- 1945 và đặc biệt là đối với sự nghiệp cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc ta. Đề tài “Mặt trận Việt Minh và những phong trào đấu tranh giải phong dân tộc từ 1941- 1945” là một đề tài hay song cũng tương đối phức tạp. Hơn nữa, do trình độ nhận thức cá nhân, tài liệu tham khảo còn hạn chế, đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi bài tiểu luận cho nên, chắc chắn baì viết này của tôi vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu xót. Vì vậy, tôi rất mong được thầy cô giáo trong khoa Lịch sử giúp đỡ, bổ sung vào những chỗ thiếu xót đó để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. NỘI DUNG I. Sự ra đời của mặt trận Việt Minh 1. Hoàn cảnh ra đời của mặt trận Việt Minh 1930-1975: Với nhiều người, nhiều quốc gia thì mốc thời gian này không gây cho họ nhiều quan tâm, chú ý. Song ở Việt Nam, 45 năm đã trôi qua và không bao giờ quay trở lại đó lại là một mốc son, một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với toàn thể dân tộc. Nó là thời điểm ghi dấu sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930)_ “đội tiền phong của vô sản giai cấp”, là lúc đặt dấu chấm hết cho toàn bộ thời kỳ cai trị của thực dân, đế quốc trên đất nước ta (1975), mở ra thời kì độc lập, tự chủ, cả nước tiến lên xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trong suốt thời gian kể từ khi mới thành lập cho đến đại thắng mùa xuân năm 1975 đó, Đảng ta đã chủ trương chú trong việc chỉ đạo quần chúng nhân dân xây dựng các mặt trận dân tộc, dân chủ nhằm gây dựng các cơ sở Đảng, thành lập các lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang… chuẩn bị chu đáo cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong đó, thắng lợi lớn nhất của công cuộc xây dựng cách mạng dân tộc dân chủ trong toàn dân đó là sự ra đời của mặt trận Việt Minh. Có thể nói, mặt trận Việt Minh ra đời là kết quả, là đỉnh cao của quá trình tích luỹ kinh nghiệm cách mạng từ nhiều năm hoạt động của Đảng.Do đó mặt trận đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu khách quan trong và ngoài nước, đáp ứng được những đòi hỏi cấp thiết của cách mạng: Lúc này, tình hình thế giới diễn ra vô cùng căng thẳng. Cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ vào tháng 9-1939 và nhanh chóng lan rộng khắp trên thế giới. Bọn đế quốc và phát xít đã tấn công mạnh vào phong trào cách mạng, tăng cường khủng bố áp bức và bóc lột nhân dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. ở Pháp do sự đầu hàng và phản bội của Đảng Xã Hội và Xã Hội Cấp Tiến, mặt trận nhân dân Pháp tan rã; chính phủ Đa-la-diê lên cầm quyền. Chúng đã thi hành chính sách đối nội phát xít, ra sức khủng bố Đảng Cộng Sản và nhân dân Pháp, chúng thẳng tay bóc lột nhân dân lao động Pháp cũng như nhân dân các thuộc địa của chúng. Trong thời gian đó, chính phủ phản động Pháp đã tham gia chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Nhưng chỉ đến tháng 6-1940, đế quốc Pháp đã bị phát xít Đức đánh bại.Chính sự thất bại của Pháp ở Châu Âu là một dịp tốt cho phát xít Nhật đánh chiếm Đông Dương rồi dùng Đông Dương làm bàn đạp để tấn công vào các thuộc địa của Anh và Pháp ở Thái Bình Dương. Trước sức mạnh của mũi súng, ngày 23/9/1940 Đờ-cu_tên toàn quyền ở Đông Dương đã quỳ gối đầu hàng, dâng nước ta cho Nhật. Tình hình chính trị trong nước ta thời gian này cũng diễn ra tương đối phức tạp. Ngày Pháp đầu hàng Nhật, dựa vào Nhật để đàn áp cách mạng Việt Nam thì cũng là lúc bắt đầu cuộc sống “một cổ hai tròng” của nhân dân ta, bắt đầu thời kì cả hai lũ quỷ Nhật-Pháp thi nhau róc xương, hút tuỷ dân ta. Về phía Pháp, ngay khi tình hình chính trị không có lợi cho chúng, chúng đã bắt tay ngay vào công cuộc vơ vét, hút máu dân ta đến cùng. Chúng tung ra chiêu bài “chính sách chỉ huy” rêu rao là làm cho nền kinh tế Đông dương được ổn định, đời sống nhân dân được bảo đảm. Nhưng thực chất cái gọi là nền kinh tế chỉ huy đó cốt để tăng cường đầu cơ,độc quyền kinh tế, bóc lột dân ta thậm tệ hơn. Mặt khác, chúng lại tăng thuế không ngừng,lạm phát giấy bạc trầm trọng,làm cho đồng bạc mất giá, nền tài chính Đông Dương khủng hoảng chưa từng thấy. Đồng thời, chúng ra pháp lệnh thu mua lương thực của dân ta một cách cưỡng bức. Chính những thủ đoạn tàn bạo đó của Pháp-Nhật đã gây nên một thảm hoạ vô cùng khủng khiếp, mỗi khi nhớ lại chúng ta càng bầm gan tím ruột. Đó chính là thảm trạng 2 triệu đồng bào ta chết đói trong mấy tháng đầu năm 1945. Đó là một trong những tội ác mà quân cướp nước đã ghi vào lịch sử dân tộc ta những nét đẫm máu không bao giờ phai nhạt được. Không đơn thuần chỉ là những vơ vét cạn kiệt về nhân tài và vật lực. Bọn thực dân Pháp còn ra sức khủng bbó các lực lượng yêu nước; xoá bỏ hết thảy mọi quyền dân chủ mà nhân dân Việt Nam đã dành được trong thời kì 1936-1939.Chúng khủng bố Đảng Cộng Sản Đông Dương, giả tán các hội ái hữu, thủ tiêu quyền tự do hội họp, tự do báo chí; tịch thu báo chí tiến bộ, bắt bớ hàng loạt những người yêu nước. Về mặt chính quyền, chúng đã “quân nhân hoá” và “phát xít hoá”. Chúng chọn và đưa những tên khát máu lên nắm chính quyền, do đó chúng đã thi hành những chính sách đàn áp dã man, đã tắm nhân dân ta trong bể máu. Về phía Nhật, bọn tư bản dồn vốn vào Đông Dương ngày càng nhiều, hòng long đoạn nền kinh tế của ta. Chúng dùng sức mạnh của lưỡi lê, máy chémđể bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu, bông, gai… để phục vụ cho chúng. Chúng đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng, tạo nên bao cảnh bi ai, thống thiết : “khóc ngô rồi lại khóc chồng khóc ngô bị nhổ, khóc chồng đi phu” Mục đích cướp bóc cho thật nhiều nguyên liệu, thực phẩm để cung ứng cho chiến tranh xâm lựoc của chúng không chỉ dừng lại ở đó. Phát xít Nhật còn cho bọn tay chân đi tuyên truyền bịp bợm thuyết “khối thịnh vượng chung đại Đông á” hòng lừa gạt dân ta, hướng dân ta đi theo tư tưởng “võ sĩ đạo” để ngoan ngoãn phụng sự cho đế quốc. Tệ hại hơn nữa là bọn tay sai của phát xít Nhật còn ru ngủ tinh thần đấu tranh của quần chúng bằng giọng lưỡi: mượn Nhật đuổi Pháp rồi sẽ đuổi Nhật.Nhưng thực chất bọn chúng chỉ muốn biến nhân dân ta trở thành những “công cụ lao động” vô tri, vô giác; muốn biến những thành quả lao động vất vả của người dân một nắng hai sương thành của cải riêng, phục vụ cho sự giàu có của đế quốc. Dưới hai tầng áp bức Nhật- Pháp, khắp nơi trên đất nước ta không nơi nào không bị bao trùm cảnh khủng bố, đè nén, cướp đoạt. Không chỗ nào mà chỉ riêng công nhân, nông dân, tiểu tư sản phải lâm vào tình trạng điêu đứng, cực khổ mà ngay cả giai cấp tư sản, địa chủ cũng đã phải trải qua những ngày tháng khốn đốn, nguy ngập. Trong những ngày cả nước rơi vào tình trạng “đói ăn, đói mặc…” thì trừ một số địa chủ được Nhật- Pháp che chở đã cướp thêm được nhiều ruộng đất để kinh doanh trong nông nghiệp, công thương nghiệp với thực dân mà ngày càng trở nên giàu có, còn đại bộ phận địa chủ đều rơi vào tình trạng sa sút chung của cả nước. Nguyên nhân là do địa chủ phải bán thóc lúa cho bọn thống trị với giá rẻ mạt, tiền bán thóc không đủ tiền vốn làm ra; kinh doanh bị thua lỗ; nhất là tầng lớp trung, tiểu địa chủ bị chèn ép nặng nề, bị ngân khố cắm ruộng đi đến phá sản. Ngay lúc này, nội bộ giai cấp địa chủ đã bị phân hoá một cách cao độ, hạng địa chủ nhỏ và địa chủ vừa bị khinh rẻ. Vì thế, lòng uất hận của trung và tiểu địa chủ đối với Pháp- Nhật tăng lên, tạo điều kiện cho họ có một tinh thần dân tộc,họ muốn đánh Pháp đuổi Nhật để bảo vệ quyền lợi của họ.Từ đó giúp cho giai cấp vô sản lôi kéo họ đứng về hàng ngũ cách mạng. Trước tình trạng hai “ông chủ’ đang tranh nhau một miếng mồi thì bọn tay sai cũng lục đục gầm ghè nhau. Tay sai Pháp muốn triệt hạ tay sai Nhật, tay sai Nhật muốn tiêu diệt tay sai Pháp. Điều đó cũng rất có lợi cho cách mạng. Giai cấp địa chủ bị phân hoá, giai cấp tư sản cũng chảng thịnh vượng gì hơn. Theo thống kê của Pháp vào tháng 10-1940, bên cạnh 53.714 người Âu thì số người tư sản Đông Dương có mức sống tương đương chỉ có 3.511 người.Vốn của họ bỏ vào kinh doanh trong các ngành: than, vận tải, chế tạo máy móc, ngân hàng chỉ bằng 1% của thực dân Pháp. Giai cấp tư sản nước ta sau đại chiến thế giới lần thứ nhất có vươn lên chút ít nhưng cũng chỉ đóng vai trò rất phụ vì họ bị tư sản Pháp chèn ép không sao ngóc đầu lên được. Thời gian trước kia ta đã thấy những sự chèn ép ra mặt đến mức Bạch Thái Bưởi_ 1 người được phong là chúa sông Bắc Kì cung đã phải bỏ nghề kinh doanh vận tải đường thuỷ; đến giai đoạn chiến tranh thế giới lần thứ hai những trường hợp bị chèn ép tương tự cũng không phải là ít. Và cũng vì thế mà tư sản hạng nhỏ và hạng vừa họ có tinh thần dân tộc, họ cũng muốn đánh Pháp, đuổi Nhật. Nhưng khổ nỗi tư sản nước ta không có vai trò lãnh đạo đánh đuổi đế quốc, họ chỉ có thể đi theo công nhân và nông dân mới làm được điều đó. Vì thực chất, mục đích đấu tranh của họ đơn thuần chỉ vì quyền lợi cá nhân, vì lợi ích kinh tế mà trước kia họ có được nay bị Nhật- Pháp tước đoạt. Còn tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ trong họ vẫn chưa cao, họ không muốn đi đến cùng cuộc đáu tranh mà chỉ muồn dừng lại khi lợi ích kinh tế cá nhân đã được trao trả, trong đó chủ yếu vẫn là lợi ích kinh tế. Đối với tầng lớp tiểu tư sản, nhất là tầng lớp công chức, đến lúc này , đời sống của họ đã trở nên thiếu thốn đặc biệt. Cái đích cuộc sống mà bọn thực dân, đế quốc đã gieo rắc vào đầu họ “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” thực chất chỉ là cái bề ngoài hư ảo. Còn bên trong lại là một sự thật bất công, sức lao động và trí óc họ bỏ ra trong công việc chẳng kém gì, thậm chí còn hơn rất nhiều người Pháp nhưng thành quả lao động_ở đây chính là lương mà họ nhân được lại không bằng 1/10 so với người Pháp. Và ngay cả những trí thức làm ngề tự do như nhà văn, nhà báo… cũng bị bạc đãi nặng nề, hoạt động tinh thần của họ không những bị bóp nghẹt mà đời sống vật chất của họ cũng thật nguy khốn: “Thần chết với lưỡi liềm ác nghiệt đang chờ sẵn trước ngưỡng cửa của nhà báo hàng ngày, hàng tuần. Và các nhà xuất bản, nhà văn đã bị gieo rắc vào đó sự khủng bố và đe doạ cuộc sống của họ trong từng giây, từng phút”. Ở thành thị, những người tiểu thương, tiểu chủ dưới sự thống trị của bọn thực dân Nhật- Pháp lại có cuộc sống kém hơn cả tầng lớp trên.Để chống đỡ với nạn khủng hoảng kinh tế, một bộ phận tiểu thương đã chạy sang sản xuất các ngành thủ công nhỏ để kiếm kế sinh nhai cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng tình trạng thiếu nguyên liệu, cung cấp nguyên liệu bấp bênh; nguồn nguyên liệu được cung cấp từ nông dân bị phân hoá nặng trong đó chế độ thuế khoá lại quá khắc nghiệt mà người tiểu thương phải gánh chịu đã đẩy họ vào tình cảnh đóng cửa, không còn chỗ đứng trong xã hội. Đó là một số lớp người ở thành thị, còn ở nông thôn thì giai cấp phú nông là những người mà ai cũng cho là “gia hữu vật lực” nhưng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai này thì biến đổi hẳn. Riêng việc bán thóc cho Nhật- Pháp là đã làm cho họ phá sản một cách nhanh chóng. Bọn Nhật thi hành chính sách độc quyền và cưỡng bức thu mua sản phẩm lương thực làm cho phú nông ở nông thôn mới mọc lên bị ngắt ngọn, thậm chí nhiều người làm nhiều nhưng không đủ nộp cho Nhật- Pháp phải chạy vạy chợ đen để mua thóc nộp cho Nhật. Năm 1943, bọn phát xít thu mua 1450 đồng/1tạ thóc mà giá thành sản xuất nơi ruộng xấu đã phải mất từ 16 đến 19 đồng/1tạ, nơi ruộng tót cũng phải mất từ 12 đến 15 đồng/1tạ. Như vậy người phú nông lấy đâu ra để tái sản xuất giản đơn, chưa nói đến để làm giàu; chưa nói đến họ còn phải chịu thiên tai hạn hán, sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch đủ điều…Vì thế mà người phú nông ở nông thôn không còn là người đủ ăn, đủ mặc nữa, phần nhiều họ bị phá sản nghiêm trọng, thậm chí có một số ít tụt xuống trung, bần nông và trở thành lực lượng cách mạng. Những giai cấp có địa vị về chính trị, có ưu thế về kinh tế trong xã hội, những tầng lớp có “máu mặt” còn phải sa sút phá sản vì chính sách của thực dân thì giai cấp công nhân, nông dân phải chịu bao nhiêu sự khổ sở cùng cực dưới chế độ thống trị của Nhật-Pháp. Giai cấp nông dân_ có thể nói là khốn khổ vô cùng. Cuộc đại chiến thế giới thứ hai xảy ra, mặc dù Việt Nam không ở trong phạm vi tác chiến trực tiếp, nhưng đã phải chịu những hậu quả ghê gớm, kinh khủng. Một trong những hậu quả tàn nhẫn, bất hạnh đó đối với nông dân là vấn đề lương thực; vấn đề thóc gạo; lũ đế quốc khát máu dùng lưỡi lê và roi vọt chẳng những đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay mà ngay cả số thóc còn thu đựơc cũng buộc phải nộp cho nhà nứơc đến 3/4, có khi tất cả hoặc còn hơn thế nữa, nghĩa là người nông dân phải ngậm đắng nuốt cay bán cửa, bán nhà lấy tiền đong thêm lúa ở ngoài với giá cắt cổ để nộp đủ cho “nhà nước”. Riêng ở Bắc Bộ năm 1941, Nhật- Pháp đã ăn cướp của nhân dân ta là 90.000 tấn thóc và lượng thóc mất vì bỏ lúa trồng cây công nghiệp là 64.000 tấn thóc. Một cảnh tượng chưa từng có trong lịch sử là người nông dân chính tay mình sản xuất ra lúa gạo mà phải nằm chết đói bên cạnh những kho thóc đầy ắp. Cảnh tượng bi thảm đó, đời sống trâu ngựa của nông dân trong thời đó đã được 1 ký giả nêu lên một cách chua xót: “Trải hơn nửa thế kỉ Pháp thuộc, nhất là từ 4 năm gần đây, dân quê đã bị hy sinh, bị bóc lột quá nhiều. Hột gạo năm nắng, mười sương mới kiếm được sắp để kề miệng ăn lại phải bấm bụng nhịn đói đem dâng cho kẻ khác. Lụa, vải họ dệt được mà vợ con họ phải mình trần chịu rét. Dầu muối họ làm được mà ngày ngày họ húp cháo cám nhạt và đêm đêm họ sống tối tăm trong những túp lều không có một tia sáng. Có lẽ trải qua các giai đoạn trong lịch sử, chưa có hồi nào nông dân hy sinh bằng hồi này”. Đối với công nhân và cả thợ thủ công, đời sống của họ đã bị đẩy đến những giờ phút điêu linh, khốn quẫn nhất. Những tháng đầu năm chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra đã có 6.000 công nhân mỏ bị sa thải vì xuất cảng bị đình trệ. Theo sự điều tra của thực dân năm 1941, trong số 150.000 thợ dệt ở nông thôn Việt Nam thì chỉ có 45.000 người được cung cấp vải sợi. Nhà máythuỷ tinh Hà Nội năm 1940 sản xuất được 5.900 tấn đến năm 1941 chỉ sản xuất được có 3.000 tấn. Những số liệu trên đã làm cho người đọc đáng giật mình vì một tình cảnh thiếu việc làm của những người công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, những người có việc làm trong các công xưởng của bọn đế quốc, thực dân thì cũng không phải đã hoàn toàn được sung sướng. Họ không chỉ bị áp lực nặng nề từ công việc mà còn phải chịu những roi đòn tàn bạo của bọn thống trị. Vì thế “mỗi khi còi tầm, nếu ai để ý nhìn người ở nnhà máy đi ra thì thấy cả một cảnh thương tâm, những thân hình tiều tuỵ, mặt mũi đen nhọ nhưng vẫn không giấu nổi nước da vàng vàng, xám xám và bì bì như sũng nước, biểu hiện sự đói cơm. Quần áo không những đụp vá nhiều chỗ, nhiều màu mà còn để lộ cả da thịt là khác. Lũ người ấy bước đi một cách uể oải, hầu như mất hết sinh lực và buồn thui thủi” Người sản xuất ra của cải vật chất, người nắm yết hầu của nền kinh tế mà bây giờ lại bị đói cực độ và không còn đường sinh sống. Vì thế, khắp nơi nơi trên đất Việt đã đồng thanh thét vang lên những tiếng oán hờn lũ giặc cướp nước: “ác chi Nhật, Pháp bay ơi Của thời cướp mất, người thời lôi đâu Của đem đúc súng, đúc tàu Người đem làm luỹ, làm cầu, làm bia Nếu không sớm giết bay đi Chết người, hết của dân thì tan hoang” Nhìn tổng quát lại ta thấy xã hội Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới làn thứ hai, trừ bọn địa chủ lớn, bọn tư sản mại bản, tay sai phản động được đế quôc che chở đã vươn lên giàu thêm. Còn giai cấp công nhân, nông dân và đại đa số các tầng lớp nhân dân khác trong xã hội đều vô cùng khổ hạnh, không những thế mà họ còn phải chịu bao nhiêu tai bay hoạ gửi: máy bay ném bom bắn phá, bọn phát xít Nhật giết chóc tù đày họ mất nhà, mất cửa… Quyền lợi của các giai cấp đều bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Trong lúc tình hình dân- nước Việt Nam đang rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng như thế thì may thay lúc này thái độ của các giai cấp trong xã hội cũng đã bắt đầu thay đổi, khả năng đoàn kết các giai cấp một cách rộng rãi đang mở ra một triển vọng mới: Giai cấp công nhân và nông dân lúc này đã hoàn toàn đối đầu với bọn cướp nước và nghiêng hẳn về phía cách mạng. Họ đã thể hiện tinh thần yêu nước bằng ý chí quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chiến thắng và hy sinh cho cách mạng đặc biệt rõ nét nhất trong 2 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kì Binh lính thuộc địa_ lực lượng chủ yếu của đế quốc dùng để đàn áp cách mạng, đàn áp phong trào yêu nước Việt Nam thì nay một số cũng đã ngã theo cách mạng. Tinh thần đó được biểu hiện rõ rệt trong cuộc khởi nghĩa Nam Kì và đặc biệt là cuộc binh biến Đô Lương(Nghệ An) do đội trưởng Nguyễn Văn Cung chỉ huy. Có thể nói, 3 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương diễn ra trong vòng hơn 3 tháng ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam đều thất bại nhưng “đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”[1]. Bên cạnh đó còn có giai cấp tư sản đặc biệt là viên chức, tiểu chủ vì nạn bóc lột của đế quốc quá nặng nề, nên họ cũng hăng hái tham gia cách mạng hoặc tỏ cảm tình với cách mạng. Giai cấp địa chủ, phú nông, tư bản bản xứ trước kia có thái độ ác cảm với cách mạng, tìm cách phá hoại hoặc thờ ơ với cách mạng thì nay chỉ trừ một số ít làm tay sai cho Nhật- Pháp còn phần đông đã có cảm tình với cách mạng hoặc giữ thái độ trung lập. Thái độ chính trị của các giai cấp thay đổi, tất nhiên sẽ làm cho thái độ và lực lượng của các đảng phái cũng thay đổi. Lực lượng Đảng Cộng Sản được quần chúng cách mạng tiếp sức nên càng vững mạnh thêm. Các đảng phái phản động cũng chuyển biến, trong số thân Pháp nay đã ghét Pháp. Từ khi bại trận, Pháp đã làm bại luôn cả lòng tin của bọn tay sai đối với chúng. Một số ảo tưởng tin ở Nhật, sau khi “người chủ” của họ đang tâm lúng túng cho thực dân Pháp vung gươm tàn sát “Việt Nam phục quốc đồng minh” trên đất Lạng Sơn và nhiều nơi khác nữa đã làm cho họ chán ngán và phân hoá.Chỉ trừ những kẻ đầu xỏ phản động, ôm chân đế quốc Pháp hay phát xít Nhật. Còn tất cả quần chúng lớp dưới của các đảng phái đó đều chán ghét đế quốc, phát xít, họ có thể ngã theo cách mạng hoặc trung lập với cách mạng. Ngay cả những tổ chức tôn giáo trước có khuynh hướng thân Nhật như: Cao Đài thì nay phần đông quần chúng tín đồ cũng ghét Pháp, chống Nhật. Trong tình hình đó, Nguyễn ái Quốc quyết định về nước (28-1-1941), trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Ngày 8-2-1941, Người đặt cơ quan tại Pắc Bó (Cao Bằng). Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng ở Pắc Bó từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941. Tham gia Hội nghị có các đồng chí trong Ban chấp hành Trung ưong, một số đại biểu của xứ uỷ Bắc Kì, Trung Kì và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị
Luận văn liên quan