Đề tài Một số biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền

Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, được cụ thể hóa trong các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2, đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, học tập cho học sinh”. Có thể nói, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn lịch sử nói riêng là hướng hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, chống lại lối dạy đọc chép, thói quen học tập thụ động. Như chúng ta đã biết môn Lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu giành nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Nhưng những nhận thức, quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của khoa học Lịch sử và môn lịch sử trong đời sống xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu, học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai hoăc nhầm lẫn kiến thức là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng . Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bối dưỡng, rèn luyện, phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Qua nhiều năm giảng dạy môn Lịch sử lớp 9 ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền, đặc biệt là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học, tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn, bởi vì đối tượng là học sinh lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở khối dưới. Nhờ được khơi dậy đúng mức tính tích cực, chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc Trung học phổ thông, nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn. Do đó tôi đã mạnh dạn chọn đế tài: “Một số biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền” Với mục đích là góp một phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 9 nói riêng ở Trường THCS, nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy cô giáo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3640 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, được cụ thể hóa trong các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2, đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, học tập cho học sinh”. Có thể nói, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn lịch sử nói riêng là hướng hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, chống lại lối dạy đọc chép, thói quen học tập thụ động. Như chúng ta đã biết môn Lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu giành nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Nhưng những nhận thức, quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của khoa học Lịch sử và môn lịch sử trong đời sống xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu, học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai hoăc nhầm lẫn kiến thức là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng . Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bối dưỡng, rèn luyện, phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Qua nhiều năm giảng dạy môn Lịch sử lớp 9 ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền, đặc biệt là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học, tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn, bởi vì đối tượng là học sinh lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở khối dưới. Nhờ được khơi dậy đúng mức tính tích cực, chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc Trung học phổ thông, nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn. Do đó tôi đã mạnh dạn chọn đế tài: “Một số biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền” Với mục đích là góp một phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 9 nói riêng ở Trường THCS, nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy cô giáo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học 2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 9 Trường Trung học cơ sở Ninh Điền 3. Phạm vi nghiên cứu: Đế tài xoay quanh việc nghiên cứu: “Một số biện pháp để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học Lịch sử ở Trường Trung học cơ sở Ninh Điền” 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học - Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp phân tích, tổng hợp, thực hành, thực nghiệm II. NỘI DUNG: 1. Cơ sở lý luận: Hiện nay có nhiều quan niệm ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng. Việc xây dựng cơ sở lý luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối cấp, vì vậy mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất về Lịch sử dân tộc cũng như Lịch sử Thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9, các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy sáng tạo. So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản. Xin trích dẫn một vài ví dụ của Giáo sư Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó: Kiểu dạy học truyền thống Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực 1. Cung cấp nhiều sự kiện được xem 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản là tiêu chí cho chất lượng giáo dục đước lựa chọn phù hợp với yêu cầu học sinh nhớ tốt, thuộc lòng trình độ của nhằm vào mục tiêu đào tạo 2. Giáo viên là nguồn kiến thức duy 2. Ngoài lời giảng của giáo viên trên nhất, phần lớn thời gian trên lớp lớp, học được tiếp xúc với nhiều nguồn dùng cho giáo viên giảng học sinh kiến thức khác: vốn kiến thức đã học, chỉ lắng nghe giảng và ghi lại lời kiến thức của bạn bè, Trong sách giáo giáo viên khoa, tài liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, thực tế cuốc sống. Học sinh chăm chú nghe giảng, nhận thức và ghi những điều mình tiếp nhận (Kiến thức mới, vấn đề được đặt ra, phương pháp) 3. Học sinh chí làm việc một mình 3. Học sinh ngoài việc tự làm việc còn trên lớp, ở nhà hoặc với giáo viên trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, khi kiểm tra trên lớp, ngoài giờ học hoặc đề xuất ý kiến thắc mắc trao đổi với giáo viên 4. Việc ghi chép được đơn giản 4. Các vấn đề thu nhận ngoài ghi chép hóa làm sao cho dễ nhớ còn được thể hiện ở các bảng biểu, mô hình, các phương tiện trực quan, quy ước, giúp cho học sinh trên cơ sở nhớ, biết để hiểu sâu sắc và do đó nhớ kỹ hiểu sâu, nắm chắc các vấn đề. 5. Các môn học chỉ dừng lại ở câu 5. Ngoài câu hỏi kiểm tra, bài tập thực hỏi, bài tập thực hành một cách thụ hành học sinh được tự đặt vấn đề, câu động. Việc đánh giá kết quả học tập hỏi để trình bày, trao đổi, được nêu ý được đo bằng trí nhớ kiến của riêng mình. Sự đánh giá kết quả học tập căn cứ vào trình độ hiểu biết của học sinh, đòi hỏi học sinh phải lập luận 6. Việc học lý thuyết không gắn 6. Việc dạy lý thuyết để nâng cao với thực hành, nhất là các môn trình độ nhận thức của học sinh, làm thuộc Khoa học xã hội và Nhân cơ sở để vận dụng những kiến thức văn đã học vào thực hành bộ môn và trong cuộc sống. Qua đó củng cố làm phong phú kiến thức đã học 7. Nguồn kiến thức thu nhận của 7. Nguồn kiến thức của học sinh rất học sinh rất hạn hẹp, thường giới phong phú, đa dạng lời nói, tài liệu hạn ở bài giảng của giáo viên, viết, đồ dùng trực quan, thực tế cuộc sách giáo khoa, phòng thí nghiệm, sống. Các nguồn kiến thức được sử tài liệu tham khảo dụng phù hợp với mục đích, yêu cầu, trình độ học tập. Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được “tích cực hóa” trong quá trình dạy – học phải chủ động sáng tạo. cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: giáo viên chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra. 2. Cơ sở thực tiễn: Trong vài năm gần đây, bộ môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 9 nói riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác. Được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi các cấp, được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học. Tuy nhiên gần 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn Lịch sử hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh tuy đã được phổ biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đã đạt được không đáng là bao. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh lớp 9 khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra. Thực trạng của vấn đề có thể được giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây: Một là: vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng bộ môn Lịch sử là môn phụ. Hai là: về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Trong suốt quá trình dạy và học bộ môn Lịch sử từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan một di tích Lịch sử vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng. Ba là: việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh lớp 9 trong học tập bộ môn Lịch sử còn nhiều hạn chế. Trong những năm trở lại đây môn Lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng, tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học môn Lịch sử. Trên cơ sở thực tế Trường THCS NinhĐiền tôi đã thấy được các mặt tích cực và hạn chế của giáo viên và học sinh trong việc dạy và học. 2.1. Tích cực: * Về phía giáo viên: Đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tổng hợp (phương pháp tình huống), phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử… Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những bạn yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn học sinh khá giỏi và học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử… Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, phim đèn chiếu, phim video.. và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học Lịch sử… * Về phía học sinh: Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời các câu hỏi cuối mục trong bài cho nên khi học các em tiếp thu bài nhanh và nắm vững nội dung bài học. Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu kém đã nhiều cố gắng trong học và tích cực tham gia các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa… các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. 2.2: Hạn chế: * Về phía giáo viên: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh, tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn. Đa số giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học tức là sau khi kiểm tra bài cũ, giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài thông qua viêc nêu câu hỏi nhận thức, điều này làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra hơi khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào. * Về phía học sinh: Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên văn sách giáo khoa để trả lời câu hỏi. Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số ít học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử còn yếu. Học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày), còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh thì học sinh còn rất lúng túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung. 2.2: Một số kiến nghị, đề xuất: Thực ra hiện nay trong các nhà trường đã được cấp rất nhiều thiết bị dạy học. Tuy nhiên đối với môn Lịch sử thì các đồ dùng, thiết bị còn hạn chế, muốn đạt được kết quả cao trong giảng dạy, tôi có một số đề xuất: - Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích Lịch sử và di sản văn hóa hoặc chân dung của các nhân vật Lịch sử có công với cách mạng, một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến Lịch sử. - Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở môn Lịch sử. 3. Các biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong học tập môn Lịch sử: 3.1. Sử dụng Sách giáo khoa (SGK) nhằm phát huy tư duy cho học sinh a. Sử dụng SGK để trình bày bài giảng: Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong SGK, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung mà tác giả mong muốn ở học sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển. Sau đó đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ hai đến ba mục nhưng không dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành nhiều thời gian hơn. Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc” (1953-1954), bài gồm có 4 mục thì mục II là mục quan trọng nhất, do đó phải dành nhiều thời gian nhất. Trong bài dạy này thường có các tranh ảnh, bản đồ, nếu không có bản đồ in sẵn thì phải phóng to bản đồ trong SGK để phục vụ bài dạy. Giáo viên dựa vào cuốn chuẩn kiến thức kĩ năng để xác định kiến thức cơ bản, xác định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh. b. Sử dụng SGK trong quá trình dạy học trên lớp: Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi so sánh đối chiếu với SGK, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà lại chép theo SGK. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lập lại ngôn ngữ trong SGK mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình. Ví dụ: Khi dạy bài “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp” (1946-1954), khi dạy phần IV: Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947, giáo viên có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích: - Sáng ngày 7/10/1947, thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Đồn, Chợ Mới. - Một cánh quân bộ từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh xuống Bắc Cạn tạo thành gọng kìm bao vây phía Đông và phía Bắc, căn cứ địa Việt Bắc. - Ngày 9/10/1947, một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng, sông Lô, sông Gâm lên Thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa bao vây phía Tây căn cứ địa Việt Bắc. Trong SGK, phần lớn các bài đều có các đoạn chữ in nhỏ, in nghiêng. Kiến thức được thể hiện ở các đoạn này rất quan trọng – là nguồn tư liệu mới làm nổi bật nội dung cơ bản của bài. Chình vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để. Nếu nó đề cập những vấn đề khó, phức tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể chuyện, nếu dễ có thể cho học sinh cùng đọc hoặc một em đọc to cho cả lớp nghe để các em cảm thụ về những sự kiên, hiện tượng lịch sử trong đoạn đó. c. Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK để học ở nhà: Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá cao, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển. Ví dụ: Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời”, giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập để nêu rõ sự thành lập và hoạt động của ba tổ chức cách mạng bằng cách lập bảng so sánh. Tên tổ chức, Thời gian thành lập, Bộ phận lãnh đạo, Thành phần tham gia, Chủ trương hoạt động… 3.2. Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học Lịch sử lớp 9 để phát triển tư duy cho học sinh: Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau: - Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ - Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi. Sau mỗi chương có câu hỏi bài tập - Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo. a. Nêu câu hỏi đầu giờ học: Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ, nhưng trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần nêu ngay câu hỏi định hướng cho học sinh. Đây là loại câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến thức của từng bài. Tuy nhiên khi nêu câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp cho các em đầy đủ sự kiện mới trả lời được. Ví dụ: Khi dạy bài “Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược” thì đầu giờ học giáo viên có thể đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ: Tại sao lại khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc Thu- Đông 1947 đến chiến thắng Biên Giới Thu- Đông 1950 là một bước phát triển của cuộc kháng chiến? Các em chú ý bài giảng và SGK để trả lời. b. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi và các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài học: Ví dụ: Trong bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945”, giáo viên đặt hai câu hỏi về điều kiện khách quan và chủ quan (thời cơ) của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên nhân thắng lợi. Những kiến thức này được sắp xếp vào giấy trong cho vào máy chiếu để học sinh quan sát tìm ra mối liên hệ giữa chúng: - Điều kiện khách quan - Điều quan chủ quan: + Pháp thua ở chính quốc rồi bị Nhật hất cẳng ở Đông Dương + Phát xít Nhật bị đồng minh đánh gục + Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ Tịch + Sự chuẩn bị kiên trì, chu đáo của ta về chính trị, vũ trang + Khả năng tận dụng thời cơ “ngàn năm có một” của ta Như vậy so sánh những kiến thức ở trên thì học sinh sẽ phân biệt được đâu là điều kiện khách quan đâu là điều kiện chủ quan. Điều đó giúp các em không những nắm về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy. c. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp: Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án phải dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời ra sao? Đáp án trả lời như thế nào? Cần tránh câu hỏi mà các em trả lời một cách đơn giản là “Có” hay “Không”, “Đúng” hay “Sai”, hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh thỏa mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình. Thông thường, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà có thể nêu các loại câu hỏi sau: - Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện, hiện tượng lịch sử như nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực triếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng đó. - Câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử như diễn biến các cuộc khởi nghĩa, các cuộc cách mạng hoặc các các cuộc chiến tranh - Câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất của các hiện tượng lịch sử bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy Ví dụ: Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - Câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa sự kiện hiện tượng lịch sử. - Câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử cùng loại với nhau Ví dụ: Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời” có thể cho học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức, hoạt động. Một điều cần lưu ý là phải động viên, khuyến khích học sinh tham gia trả lời câu hỏi dưới nhiều hình thức như khen ngợi, đánh giá, cho điể
Luận văn liên quan