Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO

1. Lý do chọn đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra sôi động, cũng như yêu cầu cấp thiết từ việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã khẳng định cạnh tranh là yếu tố quyết định sự sống còn. Nền kinh tế nước ta đang từng bước thay đổi để hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với chương trình cải cách đổi mới, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước tạo điều kiện bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động. Bên cạnh đó đòi hỏi các tổ chức, các doanh nghiệp phải đổi mới cho phù hợp. Sự phát triển của Khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp và nhu cầu xã hội hóa ngày càng đa dạng, buộc các nhà quản trị phải biết thích ứng với điều kiện thực tế, đồng thời phải củng cố, hoàn thiện tổ chức hơn nếu muốn tồn tại và phát triển. Hơn thế, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh trong các tổ chức là việc được quan tâm hàng đầu hiện nay. Quản trị chiến lược là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, vì mọi tổ chức đều cần đến chiến lược để có thể phát triển bền vững. Chính vì nhận thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác quản trị chiến lược trong bất cứ một tổ chức, một doanh nghiệp, nên em đã chọn đề tài là: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”, để làm báo cáo tốt nghiệp. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”. Thông qua việc phân tích môi trường vi mô, vĩ mô, quá trình hoạt động của công ty. Từ đó, đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh phù hợp để giúp công ty phát triển bền. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu công tác quản trị chiến lược của Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Long An IDICO. Dựa vào những số liệu thu thập được tại Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Long An IDICO trong 3 năm 2008, 2009, năm 2010, đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích tình hình kinh doanh, môi trường vĩ mô, môi trường vi mô. 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu: - Phương pháp thu thập số liệu, nghiên cứu mô tả, tổng hợp - Phương pháp sử dụng các ma trận. Từ đó đưa ra “ một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”.

docx62 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2272 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra sôi động, cũng như yêu cầu cấp thiết từ việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã khẳng định cạnh tranh là yếu tố quyết định sự sống còn. Nền kinh tế nước ta đang từng bước thay đổi để hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với chương trình cải cách đổi mới, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước tạo điều kiện bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động. Bên cạnh đó đòi hỏi các tổ chức, các doanh nghiệp phải đổi mới cho phù hợp. Sự phát triển của Khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp và nhu cầu xã hội hóa ngày càng đa dạng, buộc các nhà quản trị phải biết thích ứng với điều kiện thực tế, đồng thời phải củng cố, hoàn thiện tổ chức hơn nếu muốn tồn tại và phát triển. Hơn thế, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh trong các tổ chức là việc được quan tâm hàng đầu hiện nay. Quản trị chiến lược là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, vì mọi tổ chức đều cần đến chiến lược để có thể phát triển bền vững. Chính vì nhận thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác quản trị chiến lược trong bất cứ một tổ chức, một doanh nghiệp, nên em đã chọn đề tài là: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”, để làm báo cáo tốt nghiệp. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”. Thông qua việc phân tích môi trường vi mô, vĩ mô, quá trình hoạt động của công ty. Từ đó, đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh phù hợp để giúp công ty phát triển bền. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu công tác quản trị chiến lược của Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Long An IDICO. Dựa vào những số liệu thu thập được tại Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Long An IDICO trong 3 năm 2008, 2009, năm 2010, đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích tình hình kinh doanh, môi trường vĩ mô, môi trường vi mô. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu, nghiên cứu mô tả, tổng hợp Phương pháp sử dụng các ma trận. Từ đó đưa ra “ một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng Long An IDICO”. Bố cục đề tài Bao gồm ba phần chính: Phần mở đầu + Lý do chọn đề tài. + Mục tiêu nghiên cứu. + Phạm vi nghiên cứu. + Phương pháp nghiên cứu. Phần nội dung có bốn chương: + Chương 1: Cơ sở lý luận khoa học về quản trị chiến lược + Chương 2: Qúa trình hình thành và phát triển Công ty + Chương 3: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty + Chương 4: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty 5.3. Phần kết luận CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VỀ QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC Những vấn đề về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh Cạnh tranh được hiểu bằng nhiều cách khác nhau. Từ “cạnh tranh” được giải thích là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau.Trong tác phẩm “Quốc phú luận” của Adam Smith, tác giả cho rằng cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Vì sự cạnh tranh trong quá trình của cải quốc dân tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và giá cả, do đó, cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị trường. Theo Smith, “Nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác”, “Cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn nào”. Trong tác phẩm “Về nguồn gốc của các loài”, Charles Robert Darwin đã đề ra tư tưởng “vật cánh thiên trạch, thích giả sinh tồn”, đó là sự mô tả hay nhất về sự cạnh tranh trong giới sinh vật. Quả vậy, không có cạnh tranh thì không có sự tiến bộ của sinh vật, toàn bộ giới sinh vật, trong đó gồm cả loài người sẽ vì thiếu sức sống mà suy vong. Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác là cạnh tranh giữa những người sản xuất và liên quan tới sự cạnh tranh này là cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh tranh này diễn ra dưới ba góc độ: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Ba góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong lý luận cạnh tranh của Các Mác. Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học của trường phái Áo cho rằng: “Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý luận cạnh tranh hiện đại là vứt bỏ việc lấy cạnh tranh hoàn hảo làm giáo điều của lý luận cạnh tranh hiện thực và lý tưởng, cạnh tranh được xem xét ở góc độ là một quá trình động, phát triển chứ không phải là quá trình tĩnh”. Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng với ảnh hưởng của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là cuộc đấu tranh giữa các đối thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem là một cuộc đấu tranh giữa các đối thủ với mục đích đánh bại đối thủ. Đặc biệt, trước xu thế hội nhập như hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt và phức tạp hơn, trở thành một vấn đề sống còn của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào không thể cạnh tranh được với đối thủ sẽ nhanh chóng bị đào thải ra thương trường.  Khái niệm về năng lực cạnh tranh Theo Fafchamps, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh. Theo PGS, TS Nguyễn Thị Quy “Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sẹ hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.” Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Các cấp độ năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh quốc gia Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ, vì vậy, người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ. Năng lực cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ trên thị trường. Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp có cạnh tranh, ngược lại, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh cho nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể sự bao được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh Môi trường vĩ mô Các yếu tố kinh tế Các yếu tố kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến các đơn vị kinh doanh: lãi suất ngân hàng, giai đoạn của chu kỳ kinh tế, cán cân thanh toán, chính sách tài chính tiền tệ, tỷ lệ lạm phát, mức độ thất nghiệp, chính sách thuế. Yếu tố chính phủ và chính trị Doanh nghiệp phải tuân theo các quy định như: luật lệ của người tiêu thụ cho vay, luật lệ chống tơ rớt, đạo luật bảo vệ môi trường, luật lệ về thuế khóa, kích thích đặc biệt, luật lệ mậu dịch quốc tế, luật lệ về thuê mướn và cổ đông, ổn định của chính phủ. Những yếu tố xã hội Tất cả những doanh nghiệp phải phân tích một dải rộng những yếu tố xã hội để ấn định những nguy cơ đe dọa tiềm tàng. Những yếu tố xã hội đó là: những thái độ đối với chất lượng cuộc sống, những lối sống, phụ nữ trong lực lượng lao động, nghề nghiệp, tính linh hoạt của người tiêu thụ. Những yếu tố tự nhiên Tất cả những doanh nghiệp kinh doanh từ lâu đã nhận ra những tác động của hoàn cảnh tự nhiên vào quyết định kinh doanh của họ. Các yếu tố tự nhiên bao gồm: các loại tài nguyên, ô nhiễm, thiếu năng lượng, sự tiêu phí những tài nguyên thiên nhiên. Yếu tố công nghệ và kỹ thuật Các doanh nghiệp phải cảnh giác đối với các yếu tố công nghệ như: những sản phẩm mới, sự chuyển giao kỷ thuật mới, sự tự động hóa, người máy, bằng sáng chế, chỉ tiêu của nhà nước về nghiên cứu và phát triển. Môi trường vi mô Môi trường vi mô gồm 5 yếu tố cơ bản: đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ mới tiềm ẩn, sản phẩm thay thế. Đối thủ cạnh tranh Các đối thủ cạnh tranh hiện tại đang chia nhau chiếc bánh thị trường. Do vậy, một hành động của một đối thủ này để khai thác nhiều hơn phần thị trường đó thì sẽ nhận được sự đáp trả của đối thủ khác để giành lại phần thị trường bị mất. Nếu cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành mãnh liệt thì nguy cơ chiến tranh giá xảy ra, thị trường bị thu hẹp, lợi nhuận bị giảm sút. Trong tương lai, cạnh tranh là giành cơ hội chứ không phải là giành thị phần. Các nhân tố tác động đến mức độ ganh đua giữa các đối thủ trong ngành bao gồm cấu trúc cạnh tranh ngành, các điều kiện nhu cầu và rào cản rời ngành. Khách hàng Những khách hàng được xem như là một đe dọa cạnh tranh khi họ ở vị thế yêu cầu giá thấp hoặc yêu cầu cung cấp những dịch vụ tốt hơn. Ngược lại khi khách hàng ở vị thế yếu hơn trong đàm phán thì doanh nghiệp có cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn. Khách hàng sẽ có quyền lực nhất khi: - Ngành cung cấp được tạo bởi nhiều công ty nhỏ và khách hàng là một số ít và lớn. - Khách hàng mua sắm với khối lượng lớn. - Ngành cung cấp phụ thuộc vào khách hàng vì phần lớn doanh số phụ thuộc vào các đơn hàng của khách hàng. - Chi phí chuyển đổi giữa các nhà cung cấp là thấp. - Đặc tính kinh tế của khách hàng là mua sắm từ vài công ty cùng lúc. Nhà cung cấp Những nhà cung cấp được xem là một đe dọa khi họ yêu cầu tăng giá hoặc giảm chất lượng đầu vào, do đó làm giảm khả năng sinh lợi của công ty và ngược lại nếu nếu nhà cung cấp yếu thì công ty có thể mua được với mức giá thấp hơn hoặc yêu cầu chất lượng cao hơn. Các nhà cung cấp có quyền lực nhất khi: - Sản phẩm của nhà cung cấp ít có khả năng thay thế và quan trọng đối với công ty. - Công ty không phải là một khách hàng quan trọng của nhà cung cấp. - Chi phí chuyển đổi giữa các nhà cung cấp tương đối cao. Đối thủ tiềm ẩn mới Sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là mối nguy lớn đe dọa đến thị phần của các doanh nghiệp bằng cách đem vào ngành những năng lực sản xuất mới. Do vậy nhận diện được các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là hết sức quan trọng để thiết lập những rào cản ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập. Những rào cản có thể bao gồm: xây dựng lòng trung thành nhãn hiệu, khai thác lợi thế về chi phí thấp, tận dụng tính kinh tế về quy mô, những quy định của chính phủ... Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của doanh nghiệp như: các cá nhân, tổ chức có ý định thành lập doanh nghiệp của mình. Sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế là những sản phẩm có thể thỏa mãn những nhu cầu tương tự của khách hàng. Khả năng của sản phẩm thay thế có nguy cơ làm hạn chế khả năng đặt giá cao và do đó có thể hạn chế khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, chiến lược của doanh nghiệp sẽ được thiết kế để giành lợi thế cạnh tranh từ thực tế này. Các khái niệm về chiến lược cạnh tranh Chiến lược, quản trị chiến lược Chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp là một chương trình hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện những mục tiêu của doanh nghiệp. Chiến lược là một tập hợp những mục tiêu và các chính sách cũng như kế hoạch chủ yếu để đạt được những mục tiêu đó, nó có thể cho thấy rõ công ty đang hoặc sẽ thực hiện các hoạt động kinh doanh gì, và công ty sẽ hoặc sẽ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh gì. Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản trị chiến lược, tuy nhiên có thể tập hợp các khái niệm thành khái niệm : quản trị chiến lược là quá trình nghiên cứu các môi trường hiện tại cũng như tương lai, hoạch định các mục tiêu của tổ chức; đề ra, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định để đạt được các mục tiêu đó trong môi trường hiện tại cũng như tương lai nhằm tăng thế lực doanh nghiệp. Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh là tổng thể các cam kết và hành động giúp ngân hàng giành lợi thế cạnh tranh bằng cách khai thác các năng lực cốt lõi của nó vào thị trường sản phẩm cụ thế. Ba yếu tố cơ bản tạo nên chiến lược cấp đơn vị kinh doanh: nhu cầu khách hàng hay điều gì được thỏa mãn, nhóm khách hàng và cách thức mà các nhóm khách hàng được thỏa mãn. Các loại chiến lược cạnh tranh theo quan điểm M. Porter. Có bốn loại chiến lược kinh doanh chính: Dẫn đầu chi phí thấp: cung cấp những sản phẩm có đặc tính được khách hàng chấp nhận với mức chi phí thấp nhất trong so sánh với các đối thủ cạnh tranh Khác biệt hóa: tạo ra và cung cấp những sản phẩm được khách hàng cảm nhận là độc đáo về một vài đặc tính quan trọng Chiến lược kết hợp: kết hợp giữa dẫn đạo chi phí và tạo sự khác biệt Tập trung vào các khe hở của thị trường: hướng trực tiếp vào phục vụ cho nhu cầu của nhóm hay phân đoạn thị trường hạn chế, sử dụng cách tiếp cận khác biệt hóa hoặc chi phí thấp. Chiến lược cấp công ty Chiến lược cấp công ty xác định các hành động mà công ty thực hiện nhằm giành lợi thế cạnh tranh bằng cách lựa chọn, quản trị một nhóm các hoạt động kinh doanh khác nhau cạnh tranh trong một số ngành và thị trường sản phẩm. Có ba loại chiến lược cấp công ty chính: - Hội nhập dọc: doanh nghiệp tìm cách đầu tư vào các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh hay tìm cách đầu tư để kiểm soát đối thủ và thị trường. - Đa dạng hoá: doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản phẩm, thị trường hay đầu tư phát triển những ngành hàng mới. Có ba loại đa dạng hoá: hàng ngang, đa dạng hoá đồng tầm và đa dạng hoá kết khối. - Phát triển tập trung: (chiến lược phát triển nhanh) doanh nghiệp chỉ tập trung vào một lĩnh vực, một ngành hàng, một dãy sản phẩm nhất định (thậm chí chỉ là một sản phẩm duy nhất) nhằm tạo ra tốc độ phát triển nhanh. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Năng lực cạnh tranh (lợi thế cạnh tranh) của một doanh nghiệp sẽ xác định nguyên nhân tại sao các công ty trong cùng một ngành nhưng lại có một số công ty thì thành công còn một số khác lại thất bại. Như là một quy luật đào thải tự nhiên, những doanh nghiệp nào không thích nghi được với cơ chế kinh doanh, không đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp khác thì sẽ cầm chắc sự thất bại. Ngược lại, sự cạnh tranh lại giúp thúc đẩy sự phát triển của những doanh nghiệp có khả năng nắm bắt thời cơ, phát huy những thế mạnh của mình và hạn chế những bất lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đã làm cho môi trường toàn cầu trở nên năng động hơn, bản chất của sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành và các doanh nghiệp cũng có sự thay đổi nhanh chóng: - Các doanh nghiệp giờ đây không còn cạnh tranh trong phạm vi một nước mà thậm chí khi hoạt động tại một quốc gia thì công ty cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh toàn cầu với nhiều các đối thủ mạnh hơn. - Cạnh tranh dựa vào quy mô đã không còn có hiệu quả như trước đây, ngược lại những doanh nghiệp với quy mô nhỏ có sự linh hoạt và năng động hơn trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh sẽ hoạt động mang lại hiệu quả hơn. - Nếu như trước đây các doanh nghiệp có thể cạnh tranh dựa vào các yếu tố công nghệ hiện đại, dựa vào khả năng tiếp cận với các nguồn vốn lớn hay nguồn nguyên vật liệu thì giờ đây toàn cầu hoá đã làm cho những yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh truyền thống của doanh nghiệp cũng phải thay đổi theo. - Ngày nay các doanh nghiệp có xu hướng tạo ra lợi thế cạnh tranh của mình trên cơ sở nguồn nhân lực chiến lược, mang tính độc đáo, khó có khả năng bị sao chép như các yếu tố cạnh tranh khác. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ giúp cho bản thân các doanh nghiệp trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn trong việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình: phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, kích thích sản xuất phát triển… Doanh nghiệp nào luôn hài lòng với vị thế đang có trên thương trường sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu và sẽ bị đào thải với tốc độ nhanh không thể ngờ trong một thị trường toàn cầu luôn có sự biến động, thay đổi. Ngược lại, những doanh nghiệp thường xuyên nâng cấp các lợi thế cạnh tranh theo thời gian thì những doanh nghiệp đó sẽ đạt được những lợi thế cạnh tranh lâu dài với những chiến lược kinh doanh của mình. Dù tất cả các công ty có làm bất cứ điều gì để tạo ra lợi thế đi nữa thì rồi nó cũng sẽ không còn là lợi thế. Và vì vậy thường xuyên đánh giá và nâng cấp các lợi thế cạnh tranh, tạo ra những lợi thế mới phù hợp với điều kiện cạnh tranh hiện tại sẽ mang lại hiệu quả cao. Các công cụ đánh giá và đề ra chiến lược cạnh tranh Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong: (IFE) Công cụ hình thành chiến lược này tóm tắt và đánh giá những mặt mạnh và yếu quan trọng của các bộ phận kinh doanh chức năng, và nó cũng cung cấp cơ sở để xác định và đánh giá mối quan hệ giữa các bộ phận này. Ma trận IFE được phát triển 5 bước: Liệt kê các yếu tố bên trong chủ yếu bao gồm cả điểm mạnh và điểm yếu. Ấn định tầm quan trọng bằng cách phân loại từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0 (rất quan trọng). Tổng cộng tất cả các mức quan trọng này phải bằng 1,0. Phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố đại diện cho điểm yếu lớn nhất (phân loại bằng 1), điểm yếu nhỏ nhất (phân loại bằng 2), điểm mạnh nhỏ nhất (phân loại bằng 3), điểm mạnh lớn nhất (phân loại bằng 4). Nhân mỗi mức độ quan trọng cho mỗi yếu tố với loại của nó để xác định số điểm quan trọng cho mỗi biến số. Cộng tất cả số điểm quan trọng cho mỗi biến số để xác định số điểm quan trọng tổng cộng của tổ chức. Các yếu tố bên trong  Mức độ quan trọng  Phân loại  Số điểm quan trọng   (1)  (2)  (3)  (4)=(2)x(3)   1.      2.      3.      4      5.      …      TỔNG CỘNG  1,0     Bảng 1.1. Ma trận đánh giá nội bộ (IFE). Ma trận đánh giá yếu tố bên ngoài: (EFE) Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngo
Luận văn liên quan