Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng dưa chuột trồng trong khay xốp vụ thu đông 2009

Rau xanh là loại thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mọi gia đình. Rau cung cấp nhiều loại dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của cơ thể như: vitamin, protein, lipit, khoáng chất, hydrat cacbon và các chất xơ cần thiết cho sự tiêu hoá. Rau là nguồn cung cấp vitamin rất phong phú về thành phần và hàm lượng lại rẻ tiền. Thời gian gần đây, khi mà đời sống nhân dân được cải thiện thì nhu cầu con người về rau càng cao không chỉ là số lượng mà còn cả chất lượng rau. Trong khi đó, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dần trong đó có cả diện tích đất trồng rau, mặt khác chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt đô thị ảnh hưởng mạnh tới nền nông nghiệp bền vững nói chung và an toàn thực phẩm nói riêng trong đó có ngành sản xuất rau. Hiện nay, rau được bày bán tràn ngập trên thị trường các thành phố lớn, những khu đông dân cư với số lượng khá lớn. Tất cả các hộ ở Việt Nam đều tiêu thụ rau quả. Trong điều tra mức sống ở Việt Nam năm 1998 cho biết tất cả các hộ đều tiêu thụ rau, với mức tiêu thụ trung bình hàng năm là 53,25 kg rau đối với một người [15]. Tuy nhiên, chất lượng của rau trên thị trường chưa được quan tâm đúng đắn cụ thể như thực trạng rau không sạch, nhiều tàn dư chất bảo vệ thực vật do quá lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng quá nhiều chất kích thích tăng trưởng. Trong khi đó rau sạch bày bán trong các cửa hàng hay siêu thị lại có giá cao mà vẫn không đảm bảo được chất lượng, chưa phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân. Rau tự trồng không chỉ đáp ứng được nhu cầu trực tiếp trong sinh hoạt hàng ngày mà nó còn là một cách trang trí cho căn nhà của mình. Tự thiết kế cho mình một vườn rau nho nhỏ ở sân thượng, ban công, hành lang tạo cho ta một không gian thú vị giúp giảm stress hiệu quả. Như vậy có được những khay, thùng xốp để trồng rau là điều mong muốn của người dân sống trong các đô thị chung cư,

doc35 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9790 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng dưa chuột trồng trong khay xốp vụ thu đông 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.1.     Đặt vấn đề     Rau xanh là loại thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mọi gia đình. Rau cung cấp nhiều loại dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của cơ thể như: vitamin, protein, lipit, khoáng chất, hydrat cacbon…và các chất xơ cần thiết cho sự tiêu hoá. Rau là nguồn cung cấp vitamin rất phong phú về thành phần và hàm lượng lại rẻ tiền. Thời gian gần đây, khi mà đời sống nhân dân được cải thiện thì nhu cầu con người về rau càng cao không chỉ là số lượng mà còn cả chất lượng rau. Trong khi đó, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dần trong đó có cả diện tích đất trồng rau, mặt khác chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt đô thị ảnh hưởng mạnh tới nền nông nghiệp bền vững nói chung và an toàn thực phẩm nói riêng trong đó có ngành sản xuất rau. Hiện nay, rau được bày bán tràn ngập trên thị trường các thành phố lớn, những khu đông dân cư với số lượng khá lớn. Tất cả các hộ ở Việt Nam đều tiêu thụ rau quả. Trong điều tra mức sống ở Việt Nam năm 1998 cho biết tất cả các hộ đều tiêu thụ rau, với mức tiêu thụ trung bình hàng năm là 53,25 kg rau đối với một người [15]. Tuy nhiên, chất lượng của rau trên thị trường chưa được quan tâm đúng đắn cụ thể như thực trạng rau không sạch, nhiều tàn dư chất bảo vệ thực vật do quá lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng quá nhiều chất kích thích tăng trưởng. Trong khi đó rau sạch bày bán trong các cửa hàng hay siêu thị lại có giá cao mà vẫn không đảm bảo được chất lượng, chưa phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân. Rau tự trồng không chỉ đáp ứng được nhu cầu trực tiếp trong sinh hoạt hàng ngày mà nó còn là một cách trang trí cho căn nhà của mình. Tự thiết kế cho mình một vườn rau nho nhỏ ở sân thượng, ban công, hành lang tạo cho ta một không gian thú vị giúp giảm stress hiệu quả. Như vậy có được những khay, thùng xốp để trồng rau là điều mong muốn của người dân sống trong các đô thị chung cư,… Một giải pháp đặt ra là trồng rau trong các hộp xốp với các giá thể trồng: xơ dừa, trấu hun, đất bột,…tốn một diện tích nhỏ, có thể đặt trên nhiều vị trí khác nhau, tận dụng nhiều khoảng trống trong nhà, không tốn nhiều kinh phí, đơn giản, tận dụng được lao động những lúc nhàn rỗi, rau tự trồng nên an toàn và đáp ứng được nhu cầu trực tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh đó thì phương thức sản xuất này giúp người trồng có thời gian thư giãn làm giảm những stress của cuộc sống. Trồng rau trong khay xốp tuy có nhiều ưu điểm nhưng vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi vào thực tế.     Rau trồng trong khay chậu sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao phụ thuộc vào vật liệu làm khay chậu, tỉ lệ phối trộn giá thể, quy trình chăm sóc hợp lí,…song ảnh hưởng của giá thể đóng  vai trò quan trọng. Để giải pháp trên được ứng dụng rộng rãi trong thực tế, tìm được loại giá thể phù hợp nhất thì cần sự nghiên cứu của các nhà nông học. Với nhiệm vụ đó chúng tôi tiến hành đề tài: “ Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng dưa chuột trồng trong khay xốp vụ thu đông 2009” 1.2.     Mục đích, yêu cầu của đề tài 1.2.1.  Mục đích     Trên cơ sở đánh giá quá trình sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng suất và chất lượng dưa chuột trồng trong khay xốp với các công thức phối trộn giá thể khác nhau, xác định được công thức phối trộn giá thể phù hợp nhất làm tăng năng suất, chất lượng dưa chuột. Từ đó góp phần xây dựng quy trình kỹ thuật trồng dưa chuột trong khay xốp phục vụ sản xuất. 1.2.2.  Yêu cầu - Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, tình hình sâu bệnh hại trên cây dưa chuột trồng trong khay xốp với những công thức phối trộn giá thể khác nhau. - Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và chất lượng của dưa chuột. - Xác định được công thức phối trộn giá thể thích hợp cho sản xuất dưa chuột trong khay xốp. - Đánh giá hiệu quả kinh tế của dưa chuột trồng trong khay xốp với những công thức phối trộn giá thể khác nhau. PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh đối với cây dưa chuột     Điều kiện môi trường tác động đến sinh trưởng của cây dưa, bao gồm: khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ), thổ nhưỡng, yếu tố sinh vật và tác động của con người. Về mặt sinh lý học cây dưa chuột phản ứng mạnh với tác động của điều kiện ngoại cảnh. 2.1.1. Nhiệt độ: Dưa chuột cũng như các cây trong họ bầu bí rất mẫn cảm với sương giá đặc biệt là nhiệt độ thấp [2]. Dưa chuột thuộc nhóm cây ưa nhiệt, yêu cầu khí hậu ấm áp và khô ráo để sinh trưởng, phát triển. Dưa chuột yêu cầu đất ấm áp để nảy mầm, nhiệt độ bình thường tối thiểu từ 10-180C. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình nảy mầm là rất lớn vì vậy phải nghiên cứu kỹ mới đi đến quyết định khi nào và ở đâu có thể gieo thẳng dưa chuột. Nhiệt độ tối thiểu cho dưa chuột nảy mầm là 15,50C, nhiệt độ tối đa là 40,50C, nhiệt độ thích hợp là >15,5-350C. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng là 200C. Ở 120C cây sinh trưởng rất chậm, ở nhiệt độ thấp kéo dài (150C) các giống sinh trưởng rất khó khăn, đốt ngắn, lá nhỏ, hoa đực màu nhạt, vàng úa. Ở 50C hầu hết các giống dưa chuột có nguy cơ bị chết rét, khi nhiệt độ lên cao 400C cây ngừng sinh trưởng, hoa cái không xuất hiện. Lá bị héo khi nhiệt độ trên 400C. Hầu hết các giống dưa chuột đều phải qua giai đoạn xuân hoá ở nhiệt độ 20-220C [1].  Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian ra hoa của cây. Nhiệt độ thích hợp cho cây ra hoa cái ở ngày thứ 26 sau khi nảy mầm. Nhiệt độ càng thấp thời gian càng kéo dài. Tổng tích ôn từ lúc hạt nảy mầm đến thu quả đầu tiên ở các giống địa phương là 9000C, đến kết thúc là 16500C [3] Nhiệt độ thích hợp cho sự nảy mầm của hạt phấn 17-240C, nhiệt độ quá cao hay quá thấp so với ngưỡng nhiệt độ này đều làm giảm sức sống hạt phấn, đó chính là nguyên nhân giảm năng suất [4]. 2.1.2. Ánh sáng: Dưa chuột thuộc nhóm cây ưa sáng ngày ngắn, độ dài chiếu sáng thích hợp cho cây sinh trưởng phát dục là 10-12 giờ/ngày. Phản ứng của dưa chuột đối với ánh sáng không phụ thuộc vào giống và thời vụ gieo trồng. Cường độ ánh sáng thích hợp cho dưa chuột sinh trưởng, phát triển giúp cho cây tăng hiệu suất quang hợp, tăng năng suất, chất lượng quả và rút ngắn thời gian lớn của quả trong khoảng 15000-17000 lux [5] [3]. Trong điều kiện thiếu ánh sáng cây sinh trưởng, phát triển kém, ra hoa cái muộn, màu sắc hoa nhạt, vàng úa, hoa cái dễ rụng, năng suất quả thấp, chất lượng quả giảm, hương vị kém [1]. Mức độ phản ứng của cây với thời gian chiếu sáng trong quá trình phát sinh cũng khác nhau. Thí nghiệm đã kết luận rằng dưa chuột ở tuổi 20-25 ngày sau khi nảy mầm có phản ứng thuận với độ dài chiếu sáng dưới 12 giờ [4]. 2.1.3. Độ ẩm: Dưa chuột là loại cây chịu hạn, chịu úng kém. Trong thân cây nước chiếm 91,3%, trong quả chứa tới 93-95% nước, bộ lá dưa chuột to, hệ số thoát hơi nước lớn nên dưa chuột yêu cầu độ ẩm cao, là cây đứng đầu về nước trong họ bầu bí, độ ẩm thích hợp cho cây dưa chuột là 85-90%, độ ẩm không khí: 90-95%. Trong giai đoạn ra quả phải giữ ẩm thường xuyên từ 90-100% độ ẩm đồng ruộng. Dưa chuột kém chịu hạn, nếu thiếu nước cây không những sinh trưởng kém mà còn tích luỹ chất cucurbitancin gây đắng trong quả. Chất này thường tập trung nhiều ở phần cuối thân và dưới lớp vỏ cây. Khi thiếu nước nghiêm trọng sẽ xuất hiện quả dị hình, quả bị đắng và cây dễ bị nhiễm virus. Thời kỳ cây ra hoa, tạo quả yêu cầu lượng nước cao nhất. Hạt nảy mầm, yêu cầu lượng nước bằng 50% khối lượng hạt [6]. 2.1.4. Đất và dinh dưỡng: Cây dưa chuột ưa thích đất màu mỡ, giàu chất hữu cơ, đất tơi xốp, độ pH từ 5,5-6,8 và tốt nhất từ 6-6,5. Dưa chuột gieo trồng trên đất thịt nhẹ, đất cát pha thường cho năng suất cao, chất lượng quả tốt. Cây dưa chuột yêu cầu độ phì trong đất rất cao. Dinh dưỡng khoáng không đủ ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng và phát triển của cây. Bón phân chuồng với phân khoáng một cách hợp lý sẽ làm tăng lượng đường trong quả. Ở thời kỳ đầu sinh trưởng cây cần đạm và lân, cuối thời kỳ sinh trưởng cây không cần nhiều đạm, nếu giảm bón đạm sẽ làm tăng thu hoạch một cách rõ rệt. Cây dưa chuột lấy dinh dưỡng từ đất ít hơn rất nhiều so với cây rau khác (cà chua, cải bắp). Thí dụ: nếu năng suất dưa chuột là 30 tấn/ha thì lượng NPK do cây lấy đi từ đất là 170 kg, trong khi đó cải bắp muộn năng suất là 70 tấn/ha, yếu tố NPK cây sử dụng  là 630 kg [1]. Khi nghiên cứu về hiệu suất sử dụng phân khoáng chủ yếu của dưa chuột thấy rằng: dưa chuột sử dụng kali với hiệu suất cao nhất, thứ đến đạm rồi đến lân. Khi bón N60 P60 K60 thì dưa chuột sử dụng 92% đạm, 33% lân và 100% kali. Dưa chuột không chịu được nồng độ phân cao nhưng lại nhanh chóng phản ứng với hiện tượng thiếu dinh dưỡng. Phân hữu cơ, đặc biệt là phân chuồng có tác dụng rõ rệt làm tăng năng suất ruộng dưa chuột [6]. Bên cạnh các nguyên tố đa lượng thì các nguyên tố vi lượng đóng vai trò hết sức quan trọng. Khi bổ sung các nguyên tố vi lượng vào dung dịch phân đa lượng bón cho cây sẽ thu được quả có chất lượng cao, đặc biệt trộn hạt dưa với phân vi lượng trước sẽ làm tăng năng suất từ 50-60 tạ/ha [7]. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước: 2.2.1. Tình hình nghiên cứu về trồng rau trong khay chậu trên thế giới 2.2.1.1. Nghiên cứu vật liệu và kích thước khay chậu dùng để trồng rau Trồng cây trong giá thể là biện pháp trồng cây trong các giá thể tự tạo không phải là đất. Dinh dưỡng được cung cấp cho cây thông qua phân bón trộn trong giá thể và bón thúc. Giá thể được để trong những khay chậu. Khay chậu có thể làm bằng gỗ, xốp, đất nung, sành, sứ, đá, kim loại,…tuỳ vào điều kiện mà người trồng có thể chọn lựa và sử dụng theo sở thích của mình. Theo GS. Mary Meyer, trường Đại học Minnesota cho rằng khay chậu cho trồng cây trong giá thể có thể là bất cứ vật liệu gì giữ được giá thể và thoát nước, có thể lựa chọn các loại khay chậu sau: - Khay chậu làm bằng đất nung hoặc đất sét: loại này được sử dụng từ lâu, giúp cho sự trao đổi oxi trong khay chậu thuận lợi cho sự phát triển bộ rễ cây trồng. Tuy nhiên loại giá thể này nặng và nhanh mất nước. - Khay chậu làm bằng gỗ: dễ chế tạo, có khả năng cách nhiệt tốt, phải thay thế nếu sử dụng lâu. - Khay chậu làm bằng kim loại: có khả năng cách nhiệt kém, có thể rất nóng hoặc rất lạnh tuỳ theo thay đổi nhiệt độ bên ngoài, khay chậu cỡ lớn ít bị ảnh hưởng hơn. - Khay chậu làm bằng chất dẻo và sợi thuỷ tinh: nhẹ, giữ ẩm lâu, đặc biệt là có rất nhiều màu sắc nên dễ nhìn và hấp dẫn. - Khay chậu làm bằng đá: loại khay chậu này trọng lượng lớn, đắt, khó tìm và khi trồng cây khả năng thoát nước kém. - Khay chậu làm bằng đồ gốm tráng men: khay chậu loại này đẹp, bắt mắt nhưng không thông thoáng cho sự phát triển của rễ cây. Tác giả Richard Jauron và cộng sự [23] đưa ra kích thước tối thiểu của khay chậu và số lượng cây trồng cho một số cây như sau: Cây trồng       Kích thước tối thiểu của khay chậu      Số cây/1 khay chậu Bắp cải 1 gallon        - Củ cải đường    2 gallon        1 Cà rốt  2 gallon        - Dưa chuột       1 gallon        2 Cây cà  2 gallon        1 Đậu xanh        1 gallon        2-3 Rau diếp        1 gallon        4-6 Mùi tây ½ gallon        1 Ớt      2 gallon        2 Củ cải đỏ       2 gallon        - Rau dền 1 gallon        - Củ cải đường Thuỵ Sĩ    1 gallon        1 Cà chua Chery   1 gallon        1 Cà chua Standard        3 gallon        1 ( 1 gallon= 4,546 lít ở Anh) Tuy nhiên theo Tammy Kohleppel và Dan Lineberger [16], khay chậu làm bằng bất cứ vật liệu gì và kích cỡ bao nhiêu đều phải có lỗ thoát nước. Lỗ thoát nước có thể ở đáy hoặc ở mặt bên của khay chậu. Ở bên dưới đáy của khay chậu nên bổ sung 1 lớp sỏi thô dày 1 inch để dễ thoát nước. 2.2.1.2. Nghiên cứu về dinh dưỡng bón cho rau trồng trên giá thể Theo các nhà khoa học của Trung tâm nhà vườn, trường đại học Maryland bón phân cho cây trồng trong khay chậu với liều lượng bao nhiêu và cách bón như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại phân, nhu cầu của cây, loại giá thể, loại khay chậu,… Mỗi thời kỳ sinh trưởng của cây rau có yêu cầu về dinh dưỡng khác nhau. Vào thời kỳ nảy mầm cây sống nhờ vào năng lượng dự trữ trong hạt, không cần lấy dinh dưỡng từ đất, nhu cầu dinh dưỡng của cây trong giai đoạn này không cao. Sau đó cùng với sự phát triển của rễ, thân lá sự hấp thụ dinh dưỡng trong đất tăng lên. Và vào cuối thời kỳ phát triển các cơ quan tích luỹ dinh dưỡng đã hoàn thiện thì ở tất cả các loại rau nhu cầu dinh dưỡng giảm mạnh. Các loại rau ngắn ngày như rau dền, rau cải…có thời gian sinh trưởng từ lúc gieo trồng tới thu hoạch khoảng 30 ngày thì trong suốt quá trình sinh trưởng chỉ bón 1-2 lần. Còn các loại rau dài ngày như: cà chua, dưa chuột, ớt…thì cần phải bón nhiều hơn có thể là 2 tuần/lần hoặc hơn. Phân bón dạng dung dịch hoặc dạng bột thì sử dụng thuận tiện và hiệu quả vì dinh dưỡng được cung cấp nhanh chóng. Phân bón cho cây trồng có thể chia làm 2 loại là phân chậm tan và phân dễ tan. Theo Karen Demboski và cs., cả 2 loại phân bón này đều cần thiết cho cây trồng trong khay chậu bởi vì hầu hết các loại giá thể đều không chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển tốt nhất. Các tác giả cũng giới thiệu một số loại phân có thể sử dụng như: phân chậm tan Osmocote có tỷ lệ 14-14-14, 10-10-10 hay 13-13-13, phân dễ tan như: Peter 20-20-20, Miracle Gro 15-30-15. Phân chậm tan nên sử dụng ngay từ đầu khi phối trộn giá thể, phân dễ tan sử dụng khi cây bắt đầu sinh trưởng cho sản phẩm với lượng 1-2 tuần/lần [22]. Theo Bunt (1965) [21], hỗn hợp bầu gieo hạt (tính theo thể tích) 1 than bùn rêu nước + 1 cát bổ sung 2,4kg đá vôi nghiền + 0,6kg supephotphat 20% + 285g KNOP3. Nhưng ở hỗn hợp bầu trồng cây 3 than bùn rêu nước + 1 cát  thì bổ sung 1,8kg đá vôi nghiền + 1,5kg supephotphat 20% + 740g KNOP3 + 1,2g NH4NO3. Lawtence và Neverell (1950) [17] cho biết ở Anh bổ sung 1,5kg đá vôi nghiền và 3kg supephotphat 20%P2O5 vào 1m3 hỗn hợp giá thể là hợp lí. Nhưng khi sử dụng cho hỗn hợp trồng cây là 1,5kg đá vôi nghiền + 8,5kg phân bazơ + 12kg phân N-P-K dạng 5-10-10 cho 1m3 hỗn hợp bầu. Theo Kaplina (1976) hỗn hợp làm bầu cho bắp cải, cải xanh và dưa chuột được bổ sung 1g N, 4g P2O5, 1g K2O cho 1kg hỗn hợp giá thể cho cây con sinh trưởng, phát triển tốt hơn trồng cây trực tiếp từ hạt. Ngoài ra tác giả còn cho biết vai trò của chất khoáng có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ sinh trưởng của cây con. Có thể trộn thêm 0,5kg supelân cho 10kg hỗn hợp giá thể nhằm xúc tiến quá trình hình thành và phát triển của hệ rễ. 2.2.1.3. Nghiên cứu về giá thể trồng rau Giá thể trồng cây cũng có rất nhiều loại nhưng hầu hết được phối trộn từ các vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên như: trấu hun, xơ dừa, mùn cưa, cát, bột đá…tuy nhiên giá thể được tạo ra phải có độ thông thoáng và có khả năng giữ nước tốt. Ở các nước đang phát triển, hỗn hợp đặc biệt gồm đá trân châu, than bùn có sẵn ở dạng sử dụng được cung cấp ngay cho mục đích thay thế cho đất. Các trang trại thâm canh chủ yếu ở các nước đang phát triển thiên về nhập khẩu những hỗn hợp không phải là đất này, không có khả năng khai thác việc sử dụng vật liệu sẵn có ở địa phương. Thực tế, môi trường nhiệt đới có rất nhiều vật liệu có thể sử dụng pha chế hỗn hợp bầu trong vườn ươm. Hỗn hợp bầu trong vườn ươm cần đảm bảo khả năng giữ nước và làm thoáng khí, khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, sạch bệnh. Hỗn hợp bầu vườn ươm được sử dụng có rất nhiều công thức phối trộn, dựa vào khả năng có sẵn của nguyên vật liệu có tỉ lệ 1:1:1 là cát rây + đất vườn + phân hữu cơ; đất vườn + bột xơ dừa + phân hữu cơ hay đất vườn + phân chuồng + bột xơ dừa.[8] Theo Lawtence; Newell (1950) [17] cho biết ở Anh sử dụng hỗn hợp đất mùn + than bùn + cát thô (tính theo thể tích) có tỉ lệ 2:1:1 để gieo hạt, để trồng cây là 7:3:2. Theo Kaplina (1976), đối với cùng một loại cây nhưng với thành phần giá thể khác nhau cho năng suất khác nhau: Để gieo hạt cải bắp, cái xanh nếu thành phần giá thể gồm 3 phần mùn + 1 phần đất đồi + 0,3 phần phân bò và trong 1kg hỗn hợp trên cho thêm 1g N, 4g P2O5, 1 gK2O thì năng suất sớm đạt 181,7 tạ/ha. Nếu thành phần giá thể gồm than bùn 3 phần + mùn 1 phần + phân bò 1 phần và lượng chất khoáng như trên thì năng suất sớm đạt 170 tạ/ha. Không chỉ đối với cải bắp, cải xanh mà đối với dưa chuột cũng thế. Nếu thành phần giá thể cây con gồm 4 phần mùn + 1 phần đất đồi và trong 1 hỗn hợp trên cho thêm 1g N, 4g P2O5 và 1g K2O thì năng suất sớm đạt 238 tạ/ha. Nếu thành phần giá thể gồm 4 phần mùn + 1 phần đất trồng thì năng suất sớm đạt 189 tạ/ha. Roe và cs. (1993) [18] việc ứng dụng sản xuất giá thể đặt nền tảng cho việc phòng trừ cỏ dại sinh trưởng giữa các hàng rau ở các thời vụ. Chất thải hữu cơ là tiền đề làm tăng giá trị thương mại của các loại giá thể. Nhờ vào kỹ thuật, công nghệ mà làm tăng chất lượng cây và giảm thời gian sản xuất. Cho thấy lợi nhuận của việc sử dụng giá thể trên vùng đất nghèo dinh dưỡng làm tăng độ màu mỡ của đất, tăng thêm lượng đạm trong đất và làm tăng năng suất rau. Trung tâm nghiên cứu phát triển Rau châu Á khuyến cáo việc sử dụng rêu than bùn hoặc chất khoáng được coi như môi trường tốt cho cây con. Ví dụ: đối với ớt, sử dụng 3 phần than bùn + 1 phần chất khoáng. Hỗn hợp đặc biệt bao gồm đất + rêu than bùn + phân chuồng. Trấu hun và trấu đốt cũng được sử dụng như thành phần của hỗn hợp [19]. Masstalerz (1997) [20] cho biết ở Mỹ đưa ra công thức phối trộn (tính theo thể tích) thành phần hỗn hợp bầu bao gồm mùn sét, mùn cát sét và mùn cát có tỉ lệ 1:2:2; 1:1:1 hay 1:2:0 đều cho hiệu quả. Cho thêm 5,5- 7,7g bột đá vôi và 7,7- 9,6g supe photphat cho 1 đơn vị thể tích. Bunt (1965) [21] sử dụng hỗn hợp cho gieo hạt (tính theo thể tích) 1 than bùn rêu nước + 1 cát + 2,4kg/m3 đá vôi nghiền và hỗn hợp trồng cây: 3 than bùn rêu nước + 1 cát + 1,8kg đá vôi nghiền đều cho thấy cây con mập, khoẻ. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 2.2.2.1. Nghiên cứu về dinh dưỡng bón  cho rau trồng trên giá thể Ngô Thị Hạnh (1997),[12] Viện rau quả Hà Nội đưa ra công thức phối trộn giá thể cho gieo cải bao trong khay gồm đất + cát + phân chuồng + trấu hun theo tỷ lệ 3:1:1:1 và lượng NPK là 500g sunphat amon, 500g supe photphat và 170g clorua kali trong 1tấn giá thể. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Lê Hữu Phan (2001) [13] qua thực tế cho biết: trong nhà lưới có mái che, cứ 100kg đất than bùn thì trộn 10kg vôi bột, 10kg supe lân và 6kg N-P-K con cò (13-8-12) và ủ 1-2 tháng rồi đem vào khay để gieo hạt. Theo Tạ Thu Cúc và cs., (2000) [1] cứ 10 kg giá thể gieo hạt rau trộn thêm 0,5 kg supe lân để xúc tác quá trình hình thành và sinh trưởng của rễ. 2.2.2.2. Nghiên cứu giá thể trồng rau Trước đây giá thể chủ yếu sử dụng là cát hoặc sỏi. Ngày nay giá thể đã được thay đổi rất nhiều. Như ta đã biết, cây cần cả oxi và dinh dưỡng tiếp xúc với rễ cây. Giá thể lí tưởng là loại có khả năng giữ nước tương đương với độ thoáng khí. Khả năng giữ nước và độ thoáng khí của giá thể được quyết định bởi những khoảng trống (khe, kẽ) trong nó. Trong cát mịn có những khoảng trống rất nhỏ, không chứa được nhiều nước và oxi. Ngược lại, sỏi thô tạo ra những khoảng trống quá lớn, nhiều không khí nhưng mất nước nhanh [25]. Giá thể lí tưởng phải có những đặc điểm: - Có khả năng giữ ẩm cũng tốt như độ thoáng khí. - Có pH trung tính và có khả năng ổn định pH. - Thấm nước dễ dàng. - Bền, có khả năng tái sử dụng hoặc phân huỷ an toàn cho môi trường. - Nhẹ, rẻ và thông dụng. Giá thể có nhiều loại như xơ dừa, trấu hun, mùn cưa, cát, sỏi vụn (cỡ hạt đậu), đất nung xốp, đá trân châu, đá bọt núi lửa, rockwool (loại vật liệu có nhiều thớ, sợi, rất được các trang trại lớn ở nước ngoài ưa chuộng),...Có thể dùng đơn lẻ hoặc trộn lại để tận dụng ưu điểm từng loại. Sau nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu, Tiến sĩ Lê Thị Khánh, Trưởng bộ môn Khoa học nghề vườn thuộc khoa Nông học, Trường Đại học Nông lâm Huế đã trồng thử nghiệm rau sạch trên giá thể thành công. Đây là mô hình trồng rau sạch đầu tiên tại Thừa Thiên Huế nói riêng và miền Trung nói chung, mở ra nhiều hướng phát triển mới cho nông nghiệp. Hiện nay, Tiến sĩ Lê Thị Khánh đã thành công trong việc tạo ra giá thể bằng trấu hun, mùn cưa, vỏ lạc ủ, đầu tôm ủ, rơm sau khi đã trồng nấm. Đây là những nguyên liệu sẵ
Luận văn liên quan