Đề tài Nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay, sự quan trọng của thị trường cổ phiếu đối với nền kinh tế, phân tích những thành tựu đạt được cùng những tồn tại yếu kém

Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn dưới một năm, là nơi Đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế” (Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng, 2006: 488). Ở nước ta, thị trường tiền tệ mới hình thành, công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ còn ít nên luật pháp cho phép các giấy tờ có giá dài hạn Được phép giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo Điều 9, luật sửa Đổi một số Điều của Luật Ngân hàng Nhà nước (2003) Định nghĩa: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4659 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay, sự quan trọng của thị trường cổ phiếu đối với nền kinh tế, phân tích những thành tựu đạt được cùng những tồn tại yếu kém, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế , phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng biệt trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình chứng khoán trên thế giới. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh đấu bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Đến ngày 8/3/2005 thị trường chứng khoán Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh đấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, taọ ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thị trương chứng khoán. Tuy nhiên bên cạnh đó, Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn và đặt ra nhiều yêu cầu và thách thức mới , đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường vốn mà nổi bật là thị trường cổ phiếu. Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán, hoạt động của thị trường này diễn ra khá sôi nổi và nhạy cảm, phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Với những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường cổ phiếu trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu thiết yếu giúp chúng ta hội nhập nhanh chóng và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Xuất phát từ thực trạng thị trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay. Chúng tôi chọn đề tài “ Thị trường cổ phiếu” để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay, sự quan trọng của thị trường cổ phiếu đối với nền kinh tế, phân tích những thành tựu đạt được cùng những tồn tại yếu kém. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Chương 1: Cơ sở lý luận về cổ phiều 1.Cổ phiếu: 1.1 khái niệm Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác định quyền sở hữu của cổ đông, đối với công ty cổ phần. người mua cổ phiếu thường là trở thành cổ đông thường hay cổ đông phổ thông. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là một trong những chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh cũng như chịu mọi rủi ro trong kinh doanh. Theo Luật Chứng khoán Viện Nam:” Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”. 1.2 Phân loại: Cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường có nhiều loại - Căn cứ vào hình thức, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu đích danh. Lúc mới ra đời cổ phiếu tồn tại dưới dạng cổ phiếu ký danh có tên người sở hữu nó, sau này khi thị trường cổ phiếu phát triển loại cổ phiếu ký danh gây trở ngại cho việc lưu thông và chuyển nhượng cổ phiếu. Do đó, loại cổ phiếu không ghi danh người sở hữu ra đời và ngày càng phát triển. - Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ biến là cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thừơng. + Cổ phiếu thường: là một loại chứng khoán vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty, cổ tức được trả vào cuối năm để quyết toán. Vì vậy, cổ đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt động của công ty và họ thường là những người đứung trong ban quản trị chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của công ty. Trên thị trường giá của loại cổ phiếu thường biến động nhiều hơn so với cổ phiếu ưu đãi. + Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát hành. Với cổ phiếu này mức cổ tức không phụ thuộc vào chính sách chia lãi hàng năm của công ty. ♥ Ưu đãi về cổ tức cố định ♥ Ưu đãi hoàn lại vốn ♥ Ưu đãi về quyền biểu quyết - Căn cứ vào phương thức góp vốn: + Cổ phiếu hiện kim: dành cho những cổ đông góp vốn bằng tiền + Cổ phiếu hiện vật: dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như nhà xưởng, máy móc, thiết bị… - Căn cứ vào quyền tham gia vào bỏ phiếu: + Cổ phiếu đơn phiếu + Cổ phiếu đa phiếu 1.3 Đặc điểm - Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn do đó không có kỳ hạn và không hoàn vốn - Cổ tức của cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doang của doanh nghiệp, do đó không cố định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt cổ đông cũng được hưởng lợi nhuận cao hơn nhiều so với loại chứng khoán khác có lãi xuất cố định. Nhưng ngược lại cổ tức có thể rất thấp hoặc hoàn roàn không có khi công ty làm ăn thua lỗ. - Khi công ty phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của tài sản thanh lý - Giá cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy, đặc biệt trên thị trường thứ cấp, do nhiều nhân tố nhưng nhân tố cơ bản nhất là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị trường của công ty. 1.4 Điều kiện phát hành - Là công ty cổ phần có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành cổ phiếu tối thiểu 5 tỷ VND - Hoạt động kinh doanh năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán - Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu. 1.5. Quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông thường a. Trách nhiệm Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường của công ty cổ phần đại chúng chịu trách nhiệm hữu hạn theo phần vốn góp của mình trên 2 mặt: - Thứ nhất, phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không được rút lại. Lúc cần lấy lại vốn, họ có quyền sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán cổ phiếu cho nhà đầu tư khác. - Thứ hai, trách nhiệm của cổ đông đối với việc làm ăn thua lỗ hay tình trạng phá sản của công ty chỉ giới hạn trên phần vốn góp trên cổ phiếu. Nếu công ty làm ăn không hiệu quả xem như họ mất phần vốn đã bỏ ra để mua cổ phiếu b. Quyền lợi Là một trong những người chủ công ty, những cổ đông có những quyền lợi sau: - Quyền có thu nhập: cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận tương ứng với số cổ phiếu gọi là cổ tức từ kết quả có lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty - Quyền được chia tài sản thanh lý: trong trường hợp rủi ro, công ty bị giải thể, cổ đông cũng được chia phần những giá trị tài sản khi thanh lý, nhưng là người cuối cùng được hưởng giá trị tài sản còn lại khi thanh lý. - Quyền bỏ phiếu: cổ đông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ quản lý trong công ty, có quyền tham gia các đại hội cổ đông và bỏ phiếu quyết định các vấn đề quan trọng của công ty - Quyền mua cổ phiếu mới: khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới để tăng vốn, các cổ đông hiện đang nắm giữ cổ phiếu phổ thông có quyền được mua trước cổ phiếu mới, trước khi đợt phát hành được chao bán ra công chúng, trong một thời hạn nhất định. 1.6. Các loại cổ phiếu thường Phần lớn cổ phiếu của các công ty cổ phần là cổ phiếu thường với những đặc điểm trên, nhưng đôi khi công ty cũng phát hành những loại cổ phiếu thường khác, với những đặc điểm riêng từ sự khác biệt liên quan đến quyền bầu cử hay quyền được hưởng cổ tức. + Cổ phiếu thường loại “A”: là loại cổ phiếu phát hành ra công chúng và được hưởng cổ tức nhưng không có quyền bầu cử. Do đó loại cổ phiếu này có giá thấp hơn loại cổ phiếu thường được bỏ phiếu. + Cổ phiếu thường loại “B”: thường được gọi là cổ phiếu sáng lập viên, có quyền bầu cử, nhưng chỉ được hưởng cổ tức khi khả năng sinh lợi của công ty đã đến một giai đoạn tăng trưởng nhất định. + Cổ phiếu thường gộp lãi: người cầm loại cổ phiếu này không đươc nhận cổ tức bằng tiền mặt mà sẽ được nhận cổ tức bằng một số cổ phiếu- có giá trị tương đương- mới phát hành mà không phải bỏ thêm vốn Ngoài ra, tùy theo đặc điểm của công ty mà còn những loại cổ phiếu thường khác: Cổ phiếu thượng hạng Cổ phiếu tăng trưởng Cổ phiếu thu nhập Cổ phiếu chu kỳ Cổ phiếu theo mùa Công ty tăng trưởng và cổ phiếu tăng trưởng Công ty thận trọng và cổ phiếu thận trọng Công ty chu kỳ và cổ phiếu chu kỳ Công ty đầu cơ và cổ phiếu đầu cơ 2. Thị trường cổ phiếu 2.1 Khái niệm - Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cở bản của thị trường chứng khoán. Vì cổ phiếu là loại chứng khoán có lãi suất thường phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty do đó những nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình hình hoạt động của công ty như khủng hoảng giá dầu, giá USD, đình công, lạm phát, thất nghiệp, chiến tranh đều ảnh hưởng đến giá cả của thị trường cổ phiếu. - Thị trường chứng khoán là hình thức vận động điển hình của thị trường vốn với khối lượng giao dịch và sức thu hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư, thị trường này luôn giữ vị trí chủ yếu trong kết cấu của thị trường vốn các nước 2.2 Phân loại Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán bao gồm: - Thị trường sơ cấp: là nơi mua bán các loại chứng khoán chưa phát hành. Thị trường sơ cấp tạo điều kiện tăng quy mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng chứng khoán vào lưu thông. - Thị trường thứ cấp: là nơi chuyển nhượng quyền sở hữu các loại chứng khoán đã phát hành và đang lưu thông trên thị trường. Thị trường thứ cấp không làm thay đổi quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế. Thị trường thứ cấp thường được tổ chức theo hai cách đó là thị trường tập trung và thị trường phi tập trung + Thị trường tập trung là nơi mà các hoạt động giao dịch được thực hiện tại các sở giao dịch, chứng khoán được mua bán tại đây thỏa mãn các điều kiện được niêm yết, hay các loại hàng hóa được đưa vào thị trường tập trung pahỉ nằm trong danh mục thị trường như thị giao dịch lúa mì, cà phê, sữa bò… + Thị trường phi tập trung được thực hiện ở mọi nơi, việc mua bán được thông qua đường dây viễn thông hoặc hệ thông máy tính, tại đây thực hiện phương thức mua bán thẳng cho những ai chấp nhận giá được đưa ra nên còn được gọi là thị trường trao tay 2.3 Chức năng của thị trường chứng khoán: 1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi cảu họ được đưa vào sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. 2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của chính mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. 3. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Các dự báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; Và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tếvà là công cụ quan trọng để chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. 2.4 Vai trò của TTCK 1. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khóan. Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. TTCK hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. 2. Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp. Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Sự biến đổi không ngừng giá của giá cổ phiếu, nhà đầu tư có thể đánh gia doanh nghiệp một cách khách quan và khoa học tại bất kỳ thời điểm nào. Ngoài ra, đối với các công ty niêm yết, nghĩa vụ công khai thông tin trên TTCK Giúp các nhà đầu tư, các nhà quản trị thị trường có thể đánh giá sự tăng trưởng ổn định hay suy thoái bất ổn định của các công ty. 3. Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển. TTCK hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của các công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính thanh khoản cho chúng và như thế hút các nhà đấu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần 4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài TTCK không những thu hút vốn đầu tư nội địa mà còn giúp Chính phủ hoặc doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ Chương 2: Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời.  Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.  Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng). VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát..  Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.  Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết.  2.1. Năm 2011: thị trường chứng khoán rơi vào vòng xóay suy giảm trầm trọng Năm 2011, chính sách tiền tệ thắt chặt được triệt để thực thi nhằm đối phó với sự bùng phát của lạm phát. Dưới tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ này, TTCK- lĩnh vực được xem là phi sản xuất- đi vào vòng xoáy suy giảm trầm trọng cả về điểm số lẫn thanh khoản. TTCK VN trở thành một trong những thị trường có mức suy giảm mạnh nhất trong khu vực. kết thúc năm 2011, VNINDEX còn 351,55 điểm và HNINDEX còn 58,74 điểm, giảm lần lượt 27,5% và 48,6% so với cuối năm 2010 Những giai đoạn chính của TTCK năm 2011 Xu hướng chủ đạo của năm 2011 là giảm điểm, với hai đợt giảm mạnh nhất diễn ra vào 5/2011 và ba tháng cuối năm Giai đoạn 1: năm tháng đầu năm. Thị trường bám sát và phản ứng khá mạnh với những biến động của nền kinh tế vĩ mô và các trạng thái chính sách tiền tệ. các sóng giảm diễn ra trong giai đoạn này đánh dấu biến động khắc nghiệt của nền kinh tế vĩ mô như tỉ giá bất ngờ bị điều chỉnh tăng mạnh, lạm phát bùng phát dẫn đến sự ra đời của nghị quyết 11 về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt với lĩnh vực phi sản xuất. Nghị quyết 11, trong đó ra hạn mức cụ thể cho tăng trưởng tín dụng ở các lĩnh vực phi sản xuất, là nút thắt cản trở dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán. Thị trường trải qua đợt suy giảm mạnh và nhanh nhất vào tháng 5/2011 khi thời hạn đưa tỉ trọng tín dụng phi sản xuất về dưới 22% gần kề, buộc các NHTM tiến hành thu nợ chứng khoán dẫn đến làn sóng bán giải chấp mạnh. Chỉ trong 5 tháng đầu năm VNINDEX giảm 20% và HNINDEX giảm 40% so với cuối năm 2010 Giai đoạn 2: Sóng giảm nhẹ trong ba tháng tiếp theo do thiếu vắng thông tin Sau khi giảm mạnh và lập đáy vào ngày 25/5, thị trường có một tuần phục hồi khá tôt sau đó. Đợt phục hồi này chủ yếu mang tính kĩ thuật khi giá cổ phiếu đã giảm xuống mức thấp nhất sau hơn 1 năm. Sau tuần phục hồi này, các chỉ số liên tục đi vào kênh giảm điểm với mức độ nhẹ hơn do vắng bóng thông tin hỗ trợ và trong bối cảnh rủi ro lạm phát đang khá cao và hiện tượng vượt trần lãi suất diễn ra ngày càng phổ biến Giai đọan 3: thị trường trải qua giai đoạn biến động mạnh nhất trong 4 tháng cuối năm Một số tin tức vĩ mô tích cực bắt đầu xuất hiện trong gia đọan này như lạm phát lập đỉnh và đi vào chu kì giảm, dữ trữ ngọai hối cải thiện và kì vọng khả năng kéo giảm lãi suất như công bố của thống đốc NHNN. Nhờ vậy, thị trường chứng khoán đã có 3 tuần phục hồi- đợt tăng điểm dài và mạnh nhất trong năm- cuối tháng 8 đến nửa đầu tháng 9 năm 2011 tuy nhiên sau đợt tăng này, thị trường trải qua giai đoạn suy giảm thứ 2 trầm trọng hơn do tác động từ nhiều yếu tố như sự xuất hiện của các vụ đổ vỡ tín dụng đen, khó khăn dẫn đến yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán, mối quan hệ quan ngại về khả năng thoái vốn của NĐT ngọai và quan trọng hơn là sự suy giảm lòng tin của NĐT. Đà suy giảm của thị trường theo đó vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt khi kết thúc năm 2011 mặc dù hai chỉ số đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2009 Thanh khoản suy giảm trầm trọng năm 2011 Triển vọng kinh tế 2011 khó khăn đã được nhận thức từ đầu năm. Ngoài ra, diễn biến kinh tế thê giới khó khăn đang là động lực thuận lợi cho giá vàng và kì vọng vào khả năng sinh lợi ở kênh đầu tư ngọai tệ còn lớn đã làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của chứng khoán. Cùng với đó là chính sách tiền tệ thắt chặt càng góp phần bóp nghẹt dòng vốn dành cho kênh đầu tư này thanh khoản trên TTCK đã đi vào giai đoạn suy kiệt. Năm 2011, tổng giá trị khớp lệnh bình quân của một phiên trên cả hai sàn chỉ đạt xấp xỉ 1.126 tỉ đồng, giảm 50% so với mức bình quân của năm 2010. trái với họat động giao dịch trên sàn , họat động mua bán sáp nhập tỏ ra khá sôi động. trong năm này, giao dịch thỏa thuận trên sàn HSX tăng khoản 30% chủ yếu do chuyển nhượng ở nhóm cổ phiếu Bluechips, nổi bật là STB, VNM, FPT, VIC và HAG NĐT nước ngoài rút vốn khỏi các thị trường đầu tư mới nổi và dấu hiệu của làn sóng M&A Không chỉ nền kinh tế trong nước, kinh tế thế giới cũng trải qua năm 2011 với nhiều biến động tiêu cực: sau khá nhiều gói kích thích, đà phục hồi ở các nền kinh tế phát triển chậm hơn kì vọng, thậm chí đang mấp mé bờ vực suy thoái trong khi lạm phát làm mối đe dọa lớn; khủng hoảng nợ công ở khu vực châu Âu lan rộng; và thảm họa kép khiến kinh tế Nhật Bản chưa thoát khỏi chu kì suy thoái. Trước những khó khăn này, dòng vốn đầu tư nước ngòai có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi để bù đắp các khoản đầu tư trong nước. Làn sóng rút vốn đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở quý cuối năm 2011. Tại thị trường Việt Nam nhà đầu tư nước ngoài mua ròng hơn 1.800 tỉ đồng trong năm 2011, chỉ bằng 10% tổng giá trị mua ròng trong năm 2010 mặc dù vẫn giữ vị thế mua ròng song khối này bán ra khá nhiều bluechips. Cụ thể, các cổ phiếu bị bán ròng mạnh nhất là STB, với 69 triệu cổ phiếu tương đương 1.017 tỉ đồng tiếp đến là VIC 17,6 triệu cổ phiếu tương đương 1.819 tỉ đồng, HAG (-9,9 triệu cp), PPC(-8,2 triệu cp), SAM(-7,6 triệu cổ phiếu)… Trái với giao dịch hạn chế trên sàn niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra khá tích cực đối với các thương vụ M&A trên thị trường việt nam. Theo Vneconomy, giá trị giao dịch trên M&A của nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 81,3% tổng giá trị giao dịch M&A năm 2011, tương đương khoảng 2,17 tỉ USD. Các thương vụ nổi bật là Pokphand trung quốc vào CTCP chăn nuôi Cp. Việt Nam; IFC của CTG; Mizuho vào VCB; Diageo vào Halico; Vimpelcom vào BeeLine; Unicharm mua Diana… Tác động từ các quỹ đầu tư chỉ số Các quỹ đầu tư chỉ số nước ngòai bắt đầu thực hiện đầu tư tại thị trường việt nam từ cuối năm 2010 và đã có tác động không nhỏ đến biến động các mã trụ cột và là nguyên nhân gây ra hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” thường thấy trên sàn HSX. Sang năm 2011, trái với bức tranh ảm đạm chung của toàn thị trường, một số cổ phiếu vẫn lội ngược dòng khá tốt khi có thông tin được đ
Luận văn liên quan