Đề tài Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự và phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự

Tố tụng dân sự là trình tự, hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Theo từ điển Luật học thì “Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện.” Trong pháp luật dân sự, Điều 139 BLDS năm 2005 có quy định: “Đại điện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Trong tố tụng dân sự, người nhân danh người khác – người được đại diện – tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được gọi là người đại diện. Người đại diện trong tố tụng dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân nhưng phải là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện nên cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này được gọi là phạm vi thẩm quyền đại diện. Theo quy định này, người đại diện luôn nhân danh người khác và vì lợi ích của người khác tham gia tố tụng dân sự trong phạm vi đại diện. Tóm lại, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người do pháp luật quy định hay được đương sự ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình đại diện trước Tòa án.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6907 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự và phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/ Những vấn đề lí luận cơ bản về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Khái niệm Tố tụng dân sự là trình tự, hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Theo từ điển Luật học thì “Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện.” Trong pháp luật dân sự, Điều 139 BLDS năm 2005 có quy định: “Đại điện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Trong tố tụng dân sự, người nhân danh người khác – người được đại diện – tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được gọi là người đại diện. Người đại diện trong tố tụng dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân nhưng phải là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện nên cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này được gọi là phạm vi thẩm quyền đại diện. Theo quy định này, người đại diện luôn nhân danh người khác và vì lợi ích của người khác tham gia tố tụng dân sự trong phạm vi đại diện. Tóm lại, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người do pháp luật quy định hay được đương sự ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình đại diện trước Tòa án. Đặc điểm Thứ nhất, người đại diện của đương sự là cá nhân hoặc pháp nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Thứ hai, người đại diện là người nhân danh, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Thứ ba, để đảm bảo cho việc giải quyế vụ việc được khách quan trong một số trường hợp hạn chế đại diện ủy quyền. đó là đối với những cán bộ, công chức các ngành tòa án, kiểm sat, công an, pháp luật không cho phép họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền bởi việc họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. từ đó, công tác xét xử và đưa ra phán quyết của tòa án có thể không được chính xác, khách quan. Phân loại Xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nên người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự cũng rất đa dạng, có nhiều cách phân loại người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Dựa vào vị trí của người được đại diện, người đại diện được phân thành: người đại diện cho nguyên đơn, người đại diện cho bị đơn, người đại diện cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Dựa vào chủ thể được đại diện, người đại diện bao gồm: người đại diện cho cá nhân và người đại diện cho cơ quan tổ chức. tuy nhiên, người ta thường phân loại người đại diện bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do Tòa án chỉ định. II/ Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về người đại diện của đương sự. Người đại diện theo pháp luật Căn cứ phát sinh Người đại diện theo pháp luật được quy định trong BLDS là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện(khoản 2 Điều 73 BLTTDS). Trong pháp luật dân sự không quy định trực tiếp về khái niệm người đại diện theo pháp luật nhưng điều 140 BLDS năm 2005 có quy định “ Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.” Và điều 141 BLDS 2005 quy định khá cụ thể về diện những người được coi là đại diện theo pháp luật của các chủ thể. Người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự bao gồm: cha, mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ; người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác. Phạm vi tham gia tố tụng Đối với trường hợp đại diện theo pháp luật cho đương sự là cá nhân, thì người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng khi đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện. như vậy, phạm vi tham gia tố tụng của đại diện theo pháp luật của đương sự không bị hạn chế trong các loại việc. Quyền và nghĩa vụ Trong quan hệ đại diện trong tố tụng dân sự, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được hình thành trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của đương sự được họ đại diện. Do pháp luật tố tụng dân sự quy định “Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện” (khoản 1, điều 74 BLTTDS 2004) nên người đại diện theo pháp luật của đương sự cũng có những quyền và nghĩa vụ chung của đương sự (Điều 58 BLTTDS 2004). Về người đại diện, BLTTDS 2004 đã sửa đổi bổ sung 2011 không có gì thay đổi so với luật cũ. Tuy nhiên đã có sự thay đổi, bổ sung về quyền và nghĩa vụ của đương sự tại Điều 58. Như vậy, trường hợp người đại diện theo pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ thay cho đương sự thì đương nhiên, quyền và nghĩa vụ họ phải thực hiện cũng thay đổi. Theo Điều 58 khoản 2, thì Luật mới có những thay đổi so với Luật cũ theo hướng hoàn thiện hơn. Điểm a Khoản 2 theo Luật mới có quy định bổ sung thêm so với Luật cũ: “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này;” nhằm tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Điểm l khoản 2 theo Luật cũ chỉ quy định: “Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng;” còn đến điểm o khoản 2 theo Luật mới thì quy định thêm: “Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng;”. Như vậy, theo Luật mới, đã tăng cường quyền tự bảo vệ, tự chứng minh của đương sự, đồng thời, từ ngữ ở đây cũng được sử dụng phù hợp hơn, “người làm chứng” thay cho “nhân chứng”. Điểm x khoản 2 theo Luật mới cũng quy định bổ sung thêm: “Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định cúa Bộ luật này” … Với sự thay đổi như vậy quyền và nghĩa vụ của người đại diện cũng được mở rộng và hoàn thiện hơn, thể hiện pháp luật tăng cường việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 1.4 Những trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật Trước hết, để một người có thể làm người đại diện thì người đó phải là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ, nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà họ đại diện. Như vậy, những người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không thể làm đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự được. Tuy vậy, có những người đảm bảo đầy đủ điều kiện trên nhưng họ vẫn không được làm người đại diện theo pháp luật của đương sự do thuộc một trong các trường hợp sau: “ – Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện; – Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án” (Khoản 1 Điều 75 BLTTDS 2004). Pháp luật quy định những trường hợp loại trừ nêu trên nhằm mục đích hạn chế việc người đại diện theo pháp luật của đương sự lợi dụng những quyền lợi, nghĩa vụ pháp luật trao cho mình để trục lợi, thực hiện những hành vi có thể đem lại hậu quả bất lợi cho đương sự mà mình đại diện; đồng thời cũng tránh trường hợp một người tham gia tố tụng vừa với quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn và với quyền và nghĩa vụ của bị đơn. Chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lí Tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại đương sự được đại diện mà căn cứ chấm dứt đại diện lại khác nhau. Theo quy định tại Điều 77 BLTTDS 2004 thì “người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự” Thứ nhất, đối với đại diện theo pháp luật của đương sự là cá nhân, quan hệ đại diện sẽ chấm dứt khi: Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục. Khi đó, người được đại diện đã đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng và có khả năng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi của mình. Do đó, quan hệ đại diện không cần thiết tiếp tục tồn tại. Người được đại diện hoặc người đại diện chết; khi một người chết sẽ làm chấm dứt tư cách chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong đó có quan hệ đại diện. Người đại diện mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. trong trường hợp này, người đại diện không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên cũng không thể làm người đại diện theo pháp luật cho đương sự. Các trường hợp khác do pháp luật quy định Thứ hai, đối với đại diện theo pháp luật của đương sự là pháp nhân, quan hệ đại diện sẽ chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt. pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể và bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật phá sản. Khi đó, quan hệ đại diện theo pháp luật của pháp nhân đương nhiên sẽ không còn tồn tại. Tóm lại, căn cứ chung của việc chấm dứt đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự là khi việc đại diện trở nên không cần thiết hoặc không thực hiện được. Việc chấm dứt đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự sẽ dẫn tới hậu quả pháp lí như sau: trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục BLTTDS 2004 quy định (Khoản 1 Điều 78 BLTTDS 2004). Người đại diện do tòa án chỉ định Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự chỉ định của Tòa án. Căn cứ phát sinh người đại diện do tòa án chỉ định là: Trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt nên Tòa án chỉ tiến hành chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp không được đại diện quy định tại khoản 1 Điều 75 BLTTDS 2004 (Điều 76 BLTTDS 2004). Đối với quyền, nghĩa vụ, những trường hợp không được làm người đại diện và cơ sở chấm dứt đại diện cũng như hậu quả pháp lí của người đại diện do Tòa án chỉ định giống với người đại diện theo pháp luật như trình bày ở những mục trên. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Căn cứ phát sinh Khi không thể trực tiếp tham gia tố tụng dân sự, đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng dân sự. Theo pháp luật dân sự thì “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện” (Khoản 1 Điều 142 BLDS 2005). Và BLTTDS 2004 cũng quy định “Người đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng” (Khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004). Như vậy, có thể hiểu người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo ủy quyền của đương sự. Từ đó, có thể thấy quan hệ đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự được xác lập theo ý chí của đương sự, được thể hiện bằng sự ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện. Về nguyên tắc, việc ủy quyền giữa đương sự và người đại diện phải được lập thành văn bản, trong văn bản đó phải nêu rõ nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền. văn bản ủy quyền chỉ được coi là hợp pháp nếu văn bản đó được xác nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. nếu đương sự là cá nhân, văn bản ủy quyền phải được chứng thực tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tại cơ quan công chứng. Nếu đương sự là pháp nhân, văn bản ủy quyền phải được đại diện của pháp nhân kí và đóng dấu pháp nhân. Phạm vi tham gia tố tụng Xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có thể ủy quyền người đại diện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. tương ứng với nội dung ủy quyền, người đại diện sẽ có những quyền và nghĩa vụ tố tụng theo luật định và văn bản ủy quyền chính là căn cứ để xác định phạm vi ủy quyền này. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền Pháp luật tố tụng dân sự cũng đã quy định rõ “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền”. Như vậy, có thể khẳng định người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng thay cho đương sự trong phạm vi ủy quyền. Những trường hợp không được làm người đại diện theo ủy quyền Giống như đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền cũng có hai trường hợp mà không được làm người đại diện quy định tại Khoản 1, 2 Điều 75 BLTTDS 2004. Bên cạnh đó, trong đại diện theo ủy quyền, pháp luật tố tụng dân sự còn quy định “cán bộ, công chức trong các ngành tòa án, kiểm sát, công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật” (Khoản 3 Điều 75 BLTTDS 2004) Chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lí Cũng như đại diện theo pháp luật, căn cứ chấm dứt đại diện theo ủy quyền cũng tuân theo quy định của BLDS 2005 (Điều 77 BLTTDS 2004). Thứ nhất, đại diện ủy quyền đối với đương sự là cá nhân, quan hệ đại diện sẽ chấm dứt khi: thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành. Người được ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền. trong trường hợp này quan hệ ủy quyền chấm dứt theo ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ hủy bỏ hoặc từ chối việc ủy quyền. Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết. các sự kiện này đều làm cho việc ủy quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chấm dứt. Thứ hai, đại diện ủy quyền đối với đương sự là pháp nhân, quan hệ đại diện chấm dứt khi: Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền. Pháp nhân chấm dứt hoặc người được ủy quyền chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Như vậy, bên cạnh căn cứ chung để chấm dứt quan hệ đại diện là khi việc đại diện trở nên không cần thiết hoặc không thể thực hiện được thì đại diện theo ủy quyền còn có căn cứ chấm dứt riêng là việc các bên chấm dứt việc ủy quyền. Pháp luật còn quy định khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người đại diện phải thanh toán các nghĩa vụ tài sản với đương sự hoặc người thừa kế của đương sự. Sau khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, đương sự hoặc người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do BLTTDS 2004 quy định (Khoản 2 Điều 78 BLTTDS 2004). Thực tiễn thực tiện các quy định của pahsp luật về người đại diện của đương sự trong TTDS. Ưu điểm. Trải qua một thời gian áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện cho đương sự vào giải quyết những vụ việc trên thực tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu, hiệu quả rõ rệt. Thứ nhất, trong những năm gần đây, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện của đương sự thực hiện tốt những công việc của mình. Vì vậy, người đại diện có cơ hội thực hiện khá tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ từ quyền khởi kiện, quyền phản đối, rút đơn khởi kiện..., tham gia phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. Thứ hai, số lượng người đại diện cho đương sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sư ngày càng tăng và có tính chuyên nghiệp hơn. Thông thường là hình thức đại diện theo ủy quyền với sự tham gia của Luật sư - những người tranh tụng chuyên nghiệp, nên chất lượng của bản án, quyết định của Tòa án cũng được nâng cao. Thứ ba, việc thực hiện ác quy định về người đại diện cho đương sự được thực hiện khá nghiêm túc, Đồng thời, Tòa án cũng đã phối hợp, giúp đỡ góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện, kiểm tra, giám sát các quy định về người đại dieenjcuar đương sự. Hạn chế Trên thực tế, việc thực hiện các quy định của pháp luật về người đại diện cho đương sự vẫn còn nhiều những vướng mắc trong việc xác định vai trò của người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện… Những hạn chế đó bộc lộ qua những sai phạm trong việc xét xử của Tòa án. Dưới đây là những sai phạm phổ biến của Tòa án hiện nay, trên cơ sở phân tích và đưa ra minh chứng đó, chũng ta cùng tìm nguyên nhân, đánh giá và đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại đó. Việc xác định địa vị pháp lí của người đại diện. Những vướng mắc trong việc xác định địa vị pháp lí của người đại diện chủ yếu xoay quanh vấn đề xác định sai nguyên đơn, bị đơn dân sự do nhầm lẫn tư cách pháp lí của người được đại diện và người đại diện. Nguyên nhân chủ yếu của vi phạm này là xuất phát từ cán bộ Tòa án còn yếu về chuyên môn hoặc thiếu trách nhiệm khi làm việc. Thứ nhất, về người đại diện cho đương sự là cá nhân. Theo quy định của pháp luật, đối với người không có NLHVDS, tức họ cũng mất năng lực tố tụng, muốn tham gia tố tụng dân sự buộc phải thông qua người đại diện theo pháp luật. Khi tham gia tố tụng, thì người đại diện chỉ thay mặt đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cho nên, nguyên đơn hay bị đơn trong trường hợp này phải là người được đại diện chứ không phải người đại diện. Tuy nhiên, vẫn còn sự nhầm lẫn đáng tiếc này xảy ra trên thực tế,. Thứ hai, về người đại diện cho tổ chức. Tại khoản 7 Điều 57 BLTTDS quy định: “đương sự là cơ quan tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng”. Tuy vậy trên thực tế, vẫn có Tòa án xác định người đại diện theo pháp luật của tổ chức là bị đơn - nguyên đơn dân sự khi tổ chức đó tham gia tố tụng. Như Bản án sơ thẩm số 01/LĐ-ST ngày 13/12/2002 của TAND huyện ĐH giải quyết vụ kiện sa thải trái pháp luật của bà ĐInh thị T với công ti chế biến lâm sản BT, có giám đốc – người đại diện theo pháp luật là ông Đinh Khắc H. Tòa xác định bị đơn dân sự là ông H trong khi đúng ra, bị đơn phải là công ti chế biến lâm sản BT. Đại diện theo ủy quyền Cũng tương tự như tư cách pháp lí của người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền cũng chỉ thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi ủy quyền đã được thỏa thuận với người được đại diện. Tư cách bị đơn hay nguyên đơn dân sự trong tố tụng vẫn thuộc về người được đại diện. Tuy nhiên việc nhầm lẫn giữa người đại diện và người được đại diện ở Tòa án vẫn xảy ra trên thực tế. Ngoài ra, còn có trường hợp giấy ủy quyền ghi không rõ ràng các nội dung ủy quyền dân đến việc lạm dụng ủy quyền của người đại diện, hoặc gây khó khăn cho Tòa án trong việc xét xử. Như trường hợp tranh chấp về phạm vi ủy quyền tại TAND TP. Hồ Chính Minh. Năm 2007, ba nhân viên của công ti X bị khởi tố vì trộm giấy ủy nhiệm chi mà giám đốc công ty ký sẵn (trị giá hơn 3,6 tỉ đồng) rồi mang đến chi nhánh của Ngân hàng B yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản cá
Luận văn liên quan