Đề tài Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này

Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước, phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, công tác xét xử phải khách quan, toàn diện, tuân thủ pháp luật, đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm nhưng cũng không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong bốn bản Hiến pháp và Điều 12 BLTTDS. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2199 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ SỐ 2 Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này Mục lục Mở đầu I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.1 Cơ sở lý luận của nguyên tắc 1.2 Khái niệm 1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc II. Nội dung các qui định của pháp luật Việt Nam về nguyên tấc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 2.1 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập 2.1.1 khi xét xử TP và HTND độc lập với yếu tố bên ngoài. 2.1.2 Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩn nhân dân độc lập với nhau. 2.2 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật. 2.3 Mối quan hệ giữa độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. III. Các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.2 Những bất cập trong qui định của pháp luật 3.3 Một số giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Kết bài Chú thích: TA: Tòa án; TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao; VKS: Viện kiểm sát BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự; TP: Thẩm phán; HTND: Hội thẩm nhân dân Mở đầu Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước, phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, công tác xét xử phải khách quan, toàn diện, tuân thủ pháp luật, đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm nhưng cũng không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong bốn bản Hiến pháp và Điều 12 BLTTDS. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. I . Những vấn đề lý luận về nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam. Nguyên tắc này luôn được coi trọng và được ghi nhận trong bốn bản hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước. 1.1 Cơ sở lý luận của nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước ở Việt Nam. Tiếp thu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện này theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng chính là cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập xét xử của TA. Thứ hai, xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà TA thực hiện. TA là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp - hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý thì TA phải xét xử như một người đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật thì TA mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công lý. Thứ ba, xuất phát từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của TA có HTND tham gia đã được hiến pháp và pháp luật qui định, đó là một trong những nguyên tắc hể hiện rõ tư tương “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế độ dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho HTND thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của TA, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của TA được rõ ràng, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân. 1.2 Khái niệm Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thể hiện tư tưởng pháp lý khi xét xử các vụ án dân sự TP và HTND tự mình quyết định và tự chịu trách nhiêm về bản án và quyết định của mình mà không phụ thuộc vào quan điểm, ý kiến của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau và chỉ căn cứ và các qui định của pháp luật để xem xét và quyết định từng vấn đề của vụ án. 1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thứ nhất, nguyên tắc TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Thứ hai, thực hiện nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật góp phần đảm bảo và nâng cao chất lương xét xử các vụ án dân sự của Tòa án. đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của TP và HTND trong hoạt động xét xư các vụ án dân sự. Thứ ba. thực hiện nguyên tắc này góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan hệ kinh tế - xã hội trong giao lưu dân sự. II. Nội dung các qui định của pháp luật Việt Nam về nguyên tấc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS được ghi nhận tại điều 12 BLTTDS được xác định với hai nội dung: khi xét xử TP và HTND độc lập và khi xét xử TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật. 2.1 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập 2.1.1 khi xét xử TP và HTND độc lập với yếu tố bên ngoài Theo phương diện độc lập với các yếu tố bên ngoài thì khi xét xử tp và htnd độc lập với vks với ta các cấp, độc lập với các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân khác. Tuy nhiên, hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng và sự giám sát tối cao của Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. ây là đặc điểm của chính thể nước ra để phân biệt với các nước theo chế độc tam quyền phân lập. Hiện nay, theo qui định của luật tổ chức TAND thì ta cấp trên, TANDTC vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan giám độc việc xét xử của TA cấp dưới. Tuy nhiên, TA cấp trên chỉ quán lý ta cấp dưới về mặt chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức hành chính còn TA cấp dưới vẫn có toàn quyền quyết định đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Pháp luật qui định nguyên tấc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để đảm bảo cho TP và HTND thực hiện quyền tự quyết của mình khi xét xử. Đồng thời buộc họ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân về tính đúng đắng, hợp pháp đối với các quyết định của mình khi giải quyết vụ án. Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam về mặt nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến tính độc lập của TP và HTND. Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luâtj trong mối quan hệ với cấp ủy đảng thể hiện ở việc đảng lãnh đạo chặt chẽ các cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử từng vụ án cụ thể của TA. Trong quá trình xét xử TP và HTND không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước mà còn độc lập với các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sự và những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của quan hệ dân sự là dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên nên trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, TA luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Ngoài ra, trong quá trình xét xử, TP và HTND còn độc lập với các cơ quan báo chí và dư luận xã hội. 2.1.2 Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩn nhân dân độc lập với nhau Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì theo qui định tại điều 42 BLTTDS thì HTND có quyền nghiên cứu hồ sợ trước khi mở phiên tòa để biết được nội dung cũng như những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án. mối quan hệ giữa TP và HTND trong giai đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau, nhưng vẫn phai có sự độc lập trong nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá các tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Tại phiên tòa tính độc lập giữa TP và HTND càng được thể hiện rõ hơn. Tất cả các thành viên của HĐXX đều có quyền hỏi đương sự về những vấn đề liên quan đến vụ án. Theo Điều 222 BLTTDS thì TP chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến HTND. HTND có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào TP. Sự độc lập giữa TP và HTND được thể hiện rõ nhất trong quá trình nghị án. Điều 236, sự độc lập xét xử của TP và HTND không cho phép thành viên này được áp đặt ý kiến của mình lên các thành viên khác trong cùng một HĐXX. TP không được lấy quyền chủ tọa phiên tòa để áp đặt các quyết định của HTND theo ý kiến của mình. Ngược lại, HTND cũng không được dựa vào ưu thế số động để đánh giá, gây áp lưc để giải quyết các vấn đề theo quan điểm của mình. 2.2 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật TP và HTND chỉ tuân theo pháp luât ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật hình thức. Vì vậy, khi xét cử các vụ án dân sự, TP và HTND phải căn cứ vào các qui định của của bộ luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật lao động… đối chiếu các tình tiết của vụ án để xác định trên thực tế có hành vi vi phạm pháp luật hay không. đồng thời phải căn cứ vào BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành để xác định thẩm quyền cũng như trình tư, thủ tục giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là họ không chịu bất cứ một sự kiêm tra, giám sát nào. Mà ngược lại, theo qui định của BLTTDS, hoạt động xét xử các vụ án dân sư luôn chịu sự kiểm sát của VKS và giám đốc việc xét của của TA cấp trên. Sự giám sát này không phải là can thiệp vào hoạt động xét xử của TP và HTND mà nó nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Có như vậy thì mới đảm bảo được tính đúng đắn và hợp pháp của các bản án, quyết định của TA. 2.3 Mối quan hệ giữa độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, độc lập là điều kiện tiên quyết để TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, và ngược lại, chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để TP và HTND được độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán, chủ quan, duy ý chí khi xét xử, Còn nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới sự can thiệp trái phép từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của tòa án, làm mất đi tính độc lập của TP và HTND. III. Các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.1 thực tiễn thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Ghi nhận vai trò của HTND trong công tác xét xử của ngành TA trong những năm qua. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng một số nơi, việc tham gia xét xử của HTND vẫn mang nặng tính hình thức. Thực tế nhiều HTND chưa phát huy được hết vai trò, trách nhiệm mà pháp luật qui định, cũng như sự kì vọng của nhân dân đối với họ. Do trình độ chuyên môn và năng lực giữa TP và HTND còn một khoảng cách khá xa nên việc thực hiện nguyên tắc trong xét xử còn mang tính tượng trưng, hình thức.. 3.2 Những bất cập trong qui định của pháp luật Về hệ thống pháp luật: hiện nay, thủ tục TTDS ở nước ta là thủ tục xét hỏi. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy thủ tục này đã làm cho TA có xu hướng lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, các giai đoạn tố tụng diễn ra một cách khép kín, các bên đương sự và luật sư không phát huy được hết vai trò của mình với tư cách là những người tham gia tố tụng. Để khắc phục tình trạng nêu trên và đảm bảo tính độc lập của TA cân đổi mới thủ tục tại phiên tòa theo hướng từ xét hỏi sang tranh tụng. Mô hình tổ chức và hoạt động của TAND là một trong những yêu tố có tác động rất lớn đến việc thực hiện nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS. Ở nước ta hiện nay, hệ thống TA được tổ chức theo cấp hành chính lãnh thổ, theo đó có TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh và TAND tối cao. điều này tạo nên một bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Mặt khác, tổ chức TA theo tiêu chí lãnh thổ còn dẫn đến hiện tượng ở những mức độ khác nhau, TA vẫn chịu sự ảnh ưởng của chính quyền địa phương trong hoạt động xét xử của mình. Chính vì vậy, tính độc lập của TP và HTND trong xét xử không được đảm bảo, ảnh hưởng tới chất lượng xét xử các vụ án dân sự của TA. Cách thức quản lý của tòa án, TA cấp trên một mặt là cơ quan xét xử, đồng thời là cơ quan có chức năng giám độc việc xét xử của ta cấp dưới, đồng thời là cơ quan quản lý hành chính đối với ta cấp dưới nên không những làm ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan của chính mình mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tính đôc lập của TP cấp dưới. 3.3 Một số giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Thứ nhất, thực hiện việc tổ chức TA theo thẩm quyền xét xử. Với mô hình TA như vậy, mối quan hệ giữa TA cấp trên và TA cấp dưới lúc này chỉ yêu là quan hệ tố tụng, theo đó sẽ tăng cường tính độc lập của TP và HTND cũng như hạn chế được sự can thiệp trái pháp luật của chính quyền địa phương vào hoạt động xét xử cùa TA. Thứ hai, nâng cao tính độc lập cho TP thông qua việc đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm TP; kéo dài nhiệm kì TP để tránh sức ép tam lý cho các TP khi bổ nhiệm lại, làm cho các TP yên tâm công tác lâu dai. Mặc khác, để cho các TP thực sự khách quan, vô tư trong xét xử, ngoài các qui định cụ thể, rõ ràng của pháp luật. Thứ ba, đổi mới chế định HTND theo hướng qui định cụ thể tiêu chuẩn của HTND, việc phân công, quản lý HTND tham gia việc xét xử, việc tổ chức đoàn HTND giống như một số tổ chức xã hội – nghề nghiệp, có kinh phí hoạt động tien mà không chịu sự quản lý của Chánh án TAND cùng cấp. Bên cạnh đó, phải nâng chế độ đãi ngộ vậy chất đối với HTND khi tham gia phiên tòa, tạo động lực cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử của mình. Đồng thời, để HTND thực sự độc lập với TP trong quá trình tố tụng cũng rất cần có những giải pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng xét xử cho các HTND. Thứ ba, tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử. Thứ tư, hoàn thiện các qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự theo hướng chuyển từ thủ tục xét hỏi sang thủ tục tranh tụng để vừa đảm bảo được sự bình đẳng, vô tư, khách quan trong quá trình tố tụng, vừa đảm bảo cho các TP và HTND được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử. Kết thúc Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là một bảo đảm quan trọng trong việc Tòa án giải quyết đúng đắn và khách quan trong các vụ việc dân sự. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 2. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học luật Hà Nội – NXB Tư Pháp. 3. Đinh Trung Tụng, “Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí TAND, Đặc san chuyên đề về BLTTDS, số 8/2004, tr.18 – 26 4. Trần Văn Kiểm, “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
Luận văn liên quan