Đề tài Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại việt nam

I. Khái niệm thực tiễn. 1. Thực tiễn Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên xã hội và bản thân con người. - Đặc trưng của thực tiễn: + Thực tiễn là hoạt động của con người nó là một quan hệ chủ thể và khách thể. + Thực tiễn là hoạt động khách quan cảm tính hoạt động vật chất phổ biến. + Thực tiễn là hoạt động biến đổi hiện thực. +Thực tiễn là hoạt động căn bản, nền tảng của mọi hoạt động của con người và xã hội. + Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử xã hội.  Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, đối tượng cảm tính có mục đích có tính lịch sử xã hội của con người với nội dung là chinh phục và cải biến khách thể tự nhiên xã hội và cấu thành cơ sở phổ biến, động lực phát triển của xã hội, nhận thức của con người. Tóm lại bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể . - Hoạt động thực tiễn có tính hướng đích và tính hướng đích này do ý thức và lợi ích của các tập đoàn xã hội quy định. Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ bản:

docx16 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1146 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM Chương 1: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác – Lênin I. Khái niệm thực tiễn. 1. Thực tiễn Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên xã hội và bản thân con người. Đặc trưng của thực tiễn: + Thực tiễn là hoạt động của con người nó là một quan hệ chủ thể và khách thể. + Thực tiễn là hoạt động khách quan cảm tính hoạt động vật chất phổ biến. + Thực tiễn là hoạt động biến đổi hiện thực. +Thực tiễn là hoạt động căn bản, nền tảng của mọi hoạt động của con người và xã hội. + Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử xã hội. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, đối tượng cảm tính có mục đích có tính lịch sử xã hội của con người với nội dung là chinh phục và cải biến khách thể tự nhiên xã hội và cấu thành cơ sở phổ biến, động lực phát triển của xã hội, nhận thức của con người. Tóm lại bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể . Hoạt động thực tiễn có tính hướng đích và tính hướng đích này do ý thức và lợi ích của các tập đoàn xã hội quy định. Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ bản: + Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. + Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. + Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học. 2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. - Thực tiễn là cơ sở nhận thức của con người. Mong muốn nhận thức xuất hiện cùng với sự phát triển các năng lực thực tiễn của con người. - Thực tiễn là mục đích của nhận thức. - Thực tiễn là tiêu chuẩn là thước đo tính chân thực của các tri thức đã thu được. Tóm lại nhận thức của con người phát sinh từ thực tiễn nhằm phục vụ thực tiễn, phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn và chịu sự kiểm tra của thực tiễn. Nhận thức phải dựa vào thực tiễn, nhận thức mà tách rời thực tiễn thì căn bản không giải quyết được vấn đề. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức nhưng không coi nhẹ nhận thức. Thực tiễn và nhận thức luôn tác động qua lại lẫn nhau. Nhận thức là nhận thức lý tính, phản ánh tính quy luật và bản chất của hiện tượng khách quan, có vai trò chỉ đạo trong thực tiễn. II. Khái niệm lý luận. Khái niệm. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng. Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận. Lý luận là sự nhận thức bản chất mối liên hệ bên trong tất yếu của đối tượng và diễn đạt kết quả của nhận thức đó bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, phán đoán về quy luật nội tại của đối tượng. Hay nói cách khác Lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Đặc điểm lý luận. - Về nội dung: Lý luận phản ánh bản chất mối liên hệ tất yếu của đối tượng. Theo Lê nin cũng là cái phổ biến, quy luật của đối tượng trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó hoặc của từng mặt xác định của đối tượng. - Về mặt hình thức: Lý luận diễn đạt nội dung trên bằng các khái niệm phán đoán. Lý luận có tính trừu tượng, khái quát tổng hợp cao là do các chủ thể đã sử dụng các thủ thuật nghiên cứu như quy nạp phân tích so sánh. Đặc điểm nổi bật của hoạt động lý luận là nó có tính gián tiếp đối với các đối tượng nhận thức. Chủ thể phải vận dụng tối đa tư duy trừu tượng và sức trừu tượng hóa cao chứ không đơn thuần nắm bắt những tác động trực tiếp vào các giác quan. Chủ thể lý luận phải là người hoạt động tự giác và tích cực chủ động chiếm lĩnh đối tượng. Cấu trúc của hoạt động lý luận. Hoạt động lý luận là một hệ thống có cấu trúc cơ bản gồm: Chủ thể (Người hoạt động lý luận), khách thể (đối tượng của hoạt động lý luận), điều kiện hoạt động của lý luận, kết quả hoạt động của lý luận. + Chủ thể hoạt động của lý luận là con người xã hội có nhu cầu, mục đích, năng lực trí tuệ, thể lực và có kĩ năng, kinh nghiệm cùng các phương tiện công cụ (vật chất, tinh thần) cần thiết cho hoạt động đó. Mục đích trực tiếp của chủ thể hoạt động lý luận là nắm bắt những quá trình mang tính bản chất, quy luật của đối tượng phục vụ cho việc thực hiện những mục đích lâu dài là thỏa mãn lợi ích kinh tế xã hoạt của những tập đoàn giai cấp + Đối tượng hoạt động của lý luận. Là những mặt xác định của khách thể mà chủ thể lý luận tác động vào nhằm khám phá nắm bắt bản chất của chúng. Đối tượng có thể là những hiện tượng, quá trình tự nhiên xã hội hoặc đời sống tinh thần. + Điều kiện của hoạt động lý luận là môi trường tự nhiên văn hóa xã hội với những yếu tố, quá trình vật chất và tinh thần diễn ra trong đó. + Kết quả của hoạt động lý luận: là những học thuyết,quan niệm mới là năng lực tư duy được được nâng lên sau một chu kỳ hoạt động, là sự kết tính chuyển hóa lý luận vào các lĩnh vực nhận thức khác. Phân loại lý luận + Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người. Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung hay chung nhất. Nó lược bỏ những yếu tố ngẫu nhiên hoặc cái riêng để hình thành những quy luật chung về quá trình tồn tại, vận động, phát triển và biến đổi của hiện thực khách quan. Tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học cũng như tri thức lý luận đều phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan. Chức năng phương pháp luận của lý luận (hay tri thức luận) cho quá trình hoạt động thực tiễn ở trình độ chung hay chung nhất. Đó vừa là chức năng phương pháp luận cho hoạt động nhận thức, vừa là chức năng cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Có phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận chung và phương pháp luận chuyên ngành. Mỗi cấp độ phương pháp luận có vai trò và hiệu quả khác nhau trong quá trình hoạt động. Mỗi lĩnh vực cụ thể đều có phương pháp luận cụ thể. Phương pháp luận cụ thể chỉ đúng khi không đối lập với phương pháp luận chung hay chung nhất. III.Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận. Liên hệ vừa thống nhất vừa đối lập giữa thực tiễn và lý luận a/ Sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận: Chúng không thể tách rời nhau, sản phẩm của nhận thức lý luận nảy sinh từ thực tiễn, thực tiễn quy định nội dung lý luận, lý luận hình thành, phát triển là vì mục đích thực tiễn. Giữa thực tiễn và lý luận có sự tương thích, tương ứng. Thực tiễn cần được soi tỏ bằng lý luận của nó và lý luận bao giờ cũng là về thực tiễn nhất định. Không có thực tiễn được soi tỏ bằng lý luận bất kỳ, cũng như không có lý luận về mọi thực tiễn. Đồng nhất biện chứng giữa thực tiễn và lý luận, đó là sự chuyển hoá lý luận thành thực tiễn, áp dụng thành công lý luận vào thực tiễn, lý luận như một thành tố, kết quả tất yếu của thực tiễn. b/ Sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn: Sự đối lập giữa cái phản ánh, kết quả với cái được phản ánh, nguồn gốc, cơ sở Sự đối lập giữa cái bị quy định và cái quy định Sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn và ngược lại Vai trò tác động lẫn nhau giữa thực tiễn và lý luận a/ Thực tiễn giữ vai trò quyết định đối với lý luận Thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. - Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Đối với chủ nghĩa Mác, thực tiễn trước hết là sự hoạt động sản xuất vật chất, nó là cơ sở sinh sống của con người, nó quyết định sự sinh tồn của xã hội. Lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn, nó là kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của con người. Không có thực tiễn thì không có lý luận khoa học. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận cần phải làm sáng tỏ, cần phải giải đáp. Chỉ có lý luận nào gắn với thực tiễn, phục vụ cho nhu cầu thực tiễn và được thực tiễn kiểm tra thì mới có lý do để tồn tại lâu dài. - Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động thực tiễn góp phần làm hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Thực tiễn mà trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất đã thúc đẩy các ngành khoa học ra đời, các lý luận phát triển. - Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trong thế giới hiện thực khách quan để đem lại cho con người ngày càng nhiều lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng, để đáp ứng nhu cầu đó phải thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Lý luận quay về xâm nhập vào thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn. - Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp với hiện thực khách quan mà nó phản ánh, và nó được thực tiễn kiểm nghiệm. C. Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. b/ Lý luận giữ vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành “lực lượng vật chất”. Lý luận có thể vượt trước các dữ liệu thực tiễn, do lý luận chỉ ra các mối liên hệ chung, có thể dự báo được xu hướng vận động của sự việc. Lý luận có thể mang tính trừu tượng và khái quát cao, tính logíc và tính hệ thống chặt chẽ thì lý luận mới có khả năng thuyết phục người khác. Tuy lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh khái quát những vấn đề sinh động của thực tiễn, và nó do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn; nhưng nó có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, nó có thể tác động trở lại thực tiễn và góp phần làm biến đổi thực tiễn. Khi lý luận tác động trở lại thực tiễn: Trường hợp lý luận đúng: thì lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản ánh đúng thực tại khách quan và thâm nhập được vào quần chúng. C. Mác nói: vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ được bằng lực lượng vật chất. Những quy luật cũng sẽ trở thành vật chất khi nó thâm nhập sâu vào quần chúng. Trường hợp lý luận sai: nếu là lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan, giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa thì sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn, kiềm hãm sự phát triển của thực tiễn. C. Mác viết: cái cụ thể sỡ dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của nhiều tính quy định, do đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng. Cho nên trong tư duy, nó biểu hiện ra là một quá trình tổng hợp, là kết quả, chứ không phải là điểm xuất phát, mặc dù nó là điểm xuất phát thực sự và do đó cũng là điểm xuất phát của trực quan và của biểu tượng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ nó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy. Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn a/ Thừa nhận thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, cần chú ý những vấn đề sau: Thực tiễn chỉ là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như: tiêu chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị Qua đó, yêu cầu xây dựng lý luận phải xuất phát từ thực tế, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Nếu xa rời thực tiên sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu,tức lý luận suông. b/ Lý luận phản ánh trung thực đối tượng như nó vốn có và phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong lịch sử; Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận. Lý luận đóng vai trò chỉ đạo dẫn đường cho thực tiễn. Lý luận phải không ngừng được bổ sung, đổi mới phát triển hơn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường: Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, vạch ra các phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển các mối quan hệ thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Chính vì vậy, C.Mác đã nói: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn cần lưu ý: - Phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình. Nếu vận dụng lý luận một cách máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. - Từ lý luận chúng ta cần xây dựng các mô hình dành cho hoạt động thực tiễn hướng theo những mục khác nhau. Cần đưa ra những dự báo về các diễn biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao. - Phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. - Lý luận có thể mang lại hiệu quả, hoặc không mang lại hiệu quả, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Khi đó, giá trị của lý luận do thực tiễn quy định. V.I.Lê nin nhận xét rằng: “thực tiễn cao hơn nhận thức, vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả tính hiện thực trực tiếp”. Tóm lại lý luận khoa học và thực tiễn cấu thành sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Trong đó vai trò quyết định thuộc về thực tiễn. Chính thực tiễn quyết định những đặc trưng cấu trúc căn bản của quá trình nhận thức ở cả giai đoạn cảm tính lẫn lý tính.Trong quan hệ với thực tiễn lý luận giữ vai trò vạch kế hoạch. Chương 2: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Để phát triển lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay có những đặc điểm những vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh điểm xuất phát kinh tế của nước ta thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và không còn các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ do điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách căn bản; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang lâm vào thoái trào tạm thời. Mặc dù vậy, sau cơn biến động lớn về chính trị trên thế giới, các đảng cộng sản cầm quyền ở Trung Quốc, Cuba... vẫn tiếp tục lãnh đạo cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội, song mỗi nước lại có hoàn cảnh rất khác nhau, những bước đi và cách làm khác nhau. Việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mô hình hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của người đi trước. Nói cách khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường và các giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước có thể là kinh nghiệm tham khảo chứ không thể áp dụng máy móc, rập khuôn. Trong nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng “phải có sự kết hợp biện chứng giữa việc chú trọng đặc điểm riêng của dân tộc với giá trị phổ biến trong kinh nghiệm các nước”. Đồng thời, việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là công việc rất khó khăn. Mô hình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử, càng chưa có khi chúng ta xây dựng một nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội nước ta. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội, Đại hội IX khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Vấn đề nghiên cứu, tìm tòi để làm luận chứng cho lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa IX đánh giá: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng” và nhấn mạnh: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, song song với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cũng đã nhận định đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ – tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra – đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không những cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân; nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhận định được những khó khăn này Đảng cần phải đưa ra những đường lối, chính sách sát với thực tiễn hơn nữa, để đối phó, và giải quyết những nguy cơ, khó
Luận văn liên quan