Đề tài Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật

Trong thời kỳ hội nhập, ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội để “cọ sát” với các ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đại về công nghệ, chuyên nghiệp về quản trị, điều hành. Tuy nhiên, đó cũng là những thách thức lớn đối với các ngân hàng của Việt Nam. Trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và nhà nước đã nhấn mạnh: “phải đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính, tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”. Nhừng năm gần đây, thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều thay đổi nhanh chóng, những diễn biến trong thị trường tài chính, tiền tệ của một nước có thể ảnh hướng tới cả thị trường tiền tệ của nước khác. Chính vì thế, bên cạnh ổn định về chính trị, xã hội thì việc đảm bảo cho một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh luôn là mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nhận thức tầm quan trọng đó nhà nước ta đã đưa ra những chính sách cũng như ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra môi trường lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính, tiền tệ. Riêng ngành ngân hàng bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh một nghiệp vụ mới đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của cả hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung luôn luôn là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Hoạt động an toàn và hiệu quả của cả hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chình vì vậy, các nhà xây dựng pháp luật về hoạt động ngân hàng rất quan tâm đền vấn đề này.“Bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của hoạt động tín dụng ở mọi nền kinh tế đã vượt ra ngoài sự bảo vệ của các tổ chức kinh doanh tín dụng và trở thành mối quan tâm chung của mọi nước.” Một trong các biện pháp bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng là ban hành các quy chế về bảo đảm an toàn. Quy chế về bảo đảm an toàn của ngân hàng là tổng thể những quy phạm nhằm xác lập và tăng cường hoạt động ngân hàng vì mục tiêu an toàn và hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, quy chế này gồm những nội dung chủ yếu sau: – Nhóm quy định các trường hợp, theo đó tổ chức tín dụng không được phép cho vay, không được phép chấp nhận bảo lãnh cho một số đối tượng nhất định trong tổ chức tín dụng. – Nhóm quy định các trường hợp, theo đó tổ chức tín dụng phải hạn chế cho vay đối với một số đối tượng nhất định liên quan đến hoạt đông của ngân hàng – Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. – Nhóm các quy định cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. – Quy định về tỷ lệ dự chư bắt buộc. – Nhóm quy định nghĩa vụ phòng ngừa rủi ro. – Nhóm quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động. của các tổ chức tín dụng. Bài viết này đi sâu làm rõ vấn đề: “Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật.” và phạm vi hẹp là tại các ngân hàng thương mại. Rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1879 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Làm Trong thời kỳ hội nhập, ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội để “cọ sát” với các ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đại về công nghệ, chuyên nghiệp về quản trị, điều hành. Tuy nhiên, đó cũng là những thách thức lớn đối với các ngân hàng của Việt Nam. Trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và nhà nước đã nhấn mạnh: “phải đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính, tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”. Nhừng năm gần đây, thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều thay đổi nhanh chóng, những diễn biến trong thị trường tài chính, tiền tệ của một nước có thể ảnh hướng tới cả thị trường tiền tệ của nước khác. Chính vì thế, bên cạnh ổn định về chính trị, xã hội thì việc đảm bảo cho một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh luôn là mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nhận thức tầm quan trọng đó nhà nước ta đã đưa ra những chính sách cũng như ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra môi trường lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính, tiền tệ. Riêng ngành ngân hàng bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh một nghiệp vụ mới đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của cả hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung luôn luôn là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Hoạt động an toàn và hiệu quả của cả hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chình vì vậy, các nhà xây dựng pháp luật về hoạt động ngân hàng rất quan tâm đền vấn đề này.“Bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của hoạt động tín dụng ở mọi nền kinh tế đã vượt ra ngoài sự bảo vệ của các tổ chức kinh doanh tín dụng và trở thành mối quan tâm chung của mọi nước.” Một trong các biện pháp bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng là ban hành các quy chế về bảo đảm an toàn. Quy chế về bảo đảm an toàn của ngân hàng là tổng thể những quy phạm nhằm xác lập và tăng cường hoạt động ngân hàng vì mục tiêu an toàn và hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, quy chế này gồm những nội dung chủ yếu sau: Nhóm quy định các trường hợp, theo đó tổ chức tín dụng không được phép cho vay, không được phép chấp nhận bảo lãnh cho một số đối tượng nhất định trong tổ chức tín dụng. – Nhóm quy định các trường hợp, theo đó tổ chức tín dụng phải hạn chế cho vay đối với một số đối tượng nhất định liên quan đến hoạt đông của ngân hàng – Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. – Nhóm các quy định cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. – Quy định về tỷ lệ dự chư bắt buộc. – Nhóm quy định nghĩa vụ phòng ngừa rủi ro. – Nhóm quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động. của các tổ chức tín dụng. Bài viết này đi sâu làm rõ vấn đề: “Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật.” và phạm vi hẹp là tại các ngân hàng thương mại. Rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Khái quát về bảo hiểm tiền gửi Sự cần thiết thiến hành bảo hiểm tiền gửi An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của tổ chức tín dụng mỗi nhà nước đều đưa ra các quy định pháp luật hạn chế quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng qua đó nhằm bảo đảm hơn độ an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các biện pháp này cũng đã hạn chế phần nào rủi ro, tạo môi trường khá an toàn cho hoạt động các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, dường như những biện pháp đó vẫn chưa đủ tạo niềm tin cho người gửi tiền, cũng như bảo đảm an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Bởi vì, mặc dù đã thực hiện các biện pháp mà pháp luật đưa ra nhưng hàng năm trên thế giới vẫn có hàng trăm, hàng nghìn ngân hàng bị phá sản và người gửi tiền lại mất trắng số tiền gửi hoặc được nhân lại với số tiền rất ít. Những biện pháp bảo đảm đó vẫn chưa đủ để tạo miềm tin cho người gửi tiền – số đông là những người gửi tiền với mục đích là tiết kiệm, có những người số tiền họ gửi là cả một gia tài đối với họ. Chính vì vậy, mắc dù đã gửi tiền vào ngân hàng nhưng họ vẫn chưa yên tâm vì không hiểu liệu số tiền mình gửi đó được sử dụng như thế nào, nếu ngân hàng phá sản thì có được trả lại hay không? Đó là lỗi lo lắng, băn khoăn của hầu hết người gửi tiền khi ngân hàng phá sản thì người gửi tiền chỉ được thanh toán lại số tiền đã gửi khi thanh lý tài sản và số tiền họ nhận được là rất nhỏ, cũng có khi là mất trắng. Do tâm lý như vậy, chỉ cần một tác động nhỏ hay một thông tin nhỏ họ sẽ rút số tiền gửi tại ngân hàng đồng loạt và như vậy các ngân hàng lại dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán nguy cơ đổ vỡ là không tránh khỏi. Mà mục đích đắt ra cũng không đạt được đó là huy động được vốn nhàn dỗi từ người dân. Vì vậy, mà đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp, phải đưa ra được một biện pháp tối ưu hơn, an toàn hơn để vừa tạo niềm tin cho người gửi tiền – yếu tố quan trọng, vừa là một biện pháp để giúp cho các tổ chức tín dụng huy động được nhiều hơn nữa lượng tiền nhàn dỗi – vốn được xem là lớn trong dân. Qua đó, giúp cho nền kinh tế quốc gia được ổn định. Sự ra đồi của tổ chức bảo hiểm tiền gửi là một bước ngoặt lớn trong việc góp phần ổn định cho hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Mục đích, vai trò, chức năng, bản chất của bảo hiểm tiền gửi * Mục đích của bảo hiểm tiền gửi Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống bảo hiểm tiền gửi có khác nhau nhưng tựu chung đều nhằm đạt được mục tiêu sau: – Bảo vệ số đông người gửi tiền, đối tượng có tiền gửi ít hạn chế trong tiếp cận thông tin về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức huy động tiền gửi; – Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng, tránh đổ vỡ ngân hàng; – Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau; – Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người gửi tiền, tổ chức tài chính, Chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp có tổ chức tín dụng đổ bể. * Vai trò của bảo hiểm tiền gửi Thứ nhất, củng cố niềm tin của người gửi tiền Trong bối cảnh ngân hàng tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía mình bằng việc cố gắng mang lại lợi ích cao nhất cho người gửi tiền thì việc tạo tâm lý yên tâm về sự an toàn tiền gửi là một vấn đề quan trọng và góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn. Bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng góp phần củng cố niềm tin cho người gửi tiền. Trong chiến lược phát triển của mình bảo hiểm tiền gửi luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền với phương trâm lấy khách hàng làm tiêu điểmvới quan điểm chủ đạo như vậy không chỉ người gửi tiền mà tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ngày càng được hưởng nhiều lợi ích từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Thứ hai, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng Trong cuộc chạy đua thị phần khách hàng, thì thông thường lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về các “ông lớn” tuy nhiên khi có bảo đảm tiền gửi thì khoảng cách đó sẽ được rút ngắn dần, bởi vai trò của bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng chứ không phải chỉ cho một tổ chức đơn lẻ nào. Chính điều đó đã tại ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Thứ ba, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng qua các công cụ kiểm tra, giám sát của bảo hiểm tiền gửi Trong bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập thì bên cạnh những rủi ro thuyền thống còn xuất hiện nhiều rủi ro mới. Kiểm soát được những rủi ro đó là một vấn đề quan trọng góp phần đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia. Sử dụng một các hữu hiệu các công cụ bảo đảm của Chính phủ – Công cụ bảo hiểm là một điều hết sức cần thiết. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng của bảo hiểm tiền gửi cần được các tổ chức tín dụng nhìn nhận dưới “góc nhìn mới”. Việc kiểm tra, giám sát bảo hiểm tiền gửi giúp các tổ chức tín dụng biết nhìn nhận chính mình thông qua việc cảnh báo các rủi ro tiềm ẩn và các sai phạm yếu kém dể từ đó các tổ chức tín dụng có những giải pháp bảo đảm an toàn hệ thống. bảo hiểm tiền gửi luôn chú trọng đến công tác kiểm tra giám sát và coi đó là công cụ gián tiếp để bảo vệ tích cực và triệt để người gửi tiền. Việc ứng dụng chuẩn mực an toàn theo thông lệ quốc tế trong kiểm tra và giám sát cũng luôn được quan tâm và có những lộ trình thực hiện để đạt được mục đích cuối cùng là bảo vệ người gửi tiền, góp phần bảo vệ an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên, để công tác này thật sự phát huy hiệu quả phải có sự phối hợp tốt giữa các bên có liên quan. Bản thân các tổ chức tín dụng cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò của công tác kiểm tra, giám sát của bảo hiểm tiền gửi để từ đó có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn. Bởi chính việc kiểm tra giám sát của bảo hiểm tiền gửi là mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng. Bảo hiểm tiền gửi là một trong cơ cấu giám sát tài chính quốc gia. Thứ tư, vai trò của của bảo hiểm tiền gửi còn là một công cụ tài chính thể hiện sự hòa nhập trong xu thế hội nhập. Hiện nay, hệ thống bảo hiểm tiền gửi đã được thực hiện thành công tại hơn 80 quốc gia trên thế giới và là xu thế của nền kinh tế hiện đại. Những nước có nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng phát triển hàng đầu trên thế giới thì công cụ bảo hiểm tiền gửi cũng được sử dụng từ lâu như: Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Canada, Hà lan,… Bảo hiểm tiền gửi là một thông điệp thể hiện sự hòa nhập của Việt Nam với xu thế quốc tế về khía cạnh đảm bảo sự an toàn hệ thống trong hoạt động Tài chính – Ngân hàng. Là một tổ chức mới, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn ý thức xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên hai tiêu chí cơ bản là hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình Việt Nam thông qua tham khảo nhiều mô hình bảo hiểm tiền gửi đã thực hiện thành công trên thế giới; phân tích điều kiện của Việt Nam và tìm ra giải pháp thích hợp. * Chức năng của bảo hiểm tiền gửi - Chức năng tham gia giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham giabảo hiểm tiền gửi, góp phần bảo đảm an toàn và sự phát triển bình thường của hệ thống tài chính – tín dụng. Đây là chức năng không thể thiếu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và có tính chất bổ trợ cho chức năng bảo hiểm nói trên. Để thực hiện tốt chức năng bảo hiểm, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí cũng như phòng chống đổ vỡ, ngăn chặn trước những sự kiện bảo hiểm có thể xẩy ra, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Từ kết quả giám sát, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đưa ra những khuyến nghị cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm ngăn ngừa rủi ro, hạn chế đổ vỡ và trong giới hạn cho phép, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn có thể hỗ trợ, thậm chí có quyền can thiệp vào hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có dấu hiệu mất an toàn. - Chức năng đầu tư kinh doanh. Đây là một chức năng còn nhiều tranh cãi, nhất là trong nghiên cứu xây dựng mô hình bảo hiểm tiền gửi ở các nước đang phát triển. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, bảo hiểm tiền gửi chỉ đơn thuần là một công cụ trong tay Chính phủ để thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền cho dân cư khi có một tổ chức tín dụng bị đổ vỡ. Và do vậy, tổ chức bảo hiểm tiền gửi không phải là một tổ chức có chức năng kinh doanh, không đầu tư, không tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong điều kiện của kinh tế hiện đại, tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở các nước phát triển không phải chỉ đơn thuần là công cụ của Chính phủ nhằm hạn chế những đổ vỡ tín dụng mang tính dây chuyền mà còn là một định chế tài chính độc lập, được quản trị và điều hành như một công ty và hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Và khả năng tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi không phải chỉ lệ thuộc vào những đồng vốn ngân sách luôn ít ỏi của Chính phủ mà nó phải tăng cường năng lực tài chính từ chính hoạt động của mình. Một tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tiềm lực tài chính hùng mạnh càng thoát ly nguồn vốn ngân sách và sự lệ thuộc vào tài trợ của Chính phủ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Và vì vậy, bảo hiểm tiền gửi cần phải có và phải làm tốt chức năng đầu tư tự tìm kiếm lợi nhuận, trước hết là nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước giao, sau đó là tự tăng cường năng lực tài chính để bảo đảm có đủ khả năng xử lý rủi ro mà không cần đến sự hỗ trợ thường xuyên của Chính phủ. Tất nhiên, ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào từng thời kỳ mà xác định chức năng này của bảo hiểm tiền gửi là khác nhau. Chẳng hạn như ở nước ta, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng trong tương lai đây sẽ là vấn đề cần phải được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thực sự lớn mạnh. * Bản chất của hoạt động bảo hiểm tiền gửi Xét về mặt thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm có dối tượng bảo hiểm chính là “tiền gửi”. Theo quy định tại khoản 9 Điều 20: “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền.” Như vậy, về bản chất tổ chức bảo hiểm tiền gửi dù được tổ chức và hoạt động dưới bất kỳ hình thức nào thì nó vẫn mang bản chất của một tổ chức bảo hiểm. Và do vậy, họat động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi vẫn cơ bản dựa theo nguyên lý của hoạt động bảo hiểm là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho số ít. Tuy nhiên, bảo hiểm tiền gửi là một hoạt động bảo hiểm mang đầy rủi ro, vì vậy, ít tổ chức bảo hiểm thương mại nào dám kinh doanh loại hình bảo hiểm này, và do vậy, thông thường Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ quyền lợi của công chúng khi họ gặp rủi ro về tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và người gửi tiền về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Bảo hiểm tiền gửi là hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho người gửi tiền. Dịch vụ này mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học, dịch vụ bảo hiểm tiền gửi thuộc loại hàng hoá công không thuần tuý. Cơ sở để gọi dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là hàng hoá công không thuần tuý, căn cứ vào tính không loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối của dịch vụ này. Xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là toàn xã hội. Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách bảo hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm, khi tổ chức nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán. Người đi vay sẽ được hưởng lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi ở chỗ tính ổn định của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền vay được an toàn và thuận tiện hơn. Có được hệ thống tài chính ổn định sẽ giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển thuận lợi v.v… Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt đối mà dịch vụ bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hoá công không thuần tuý. Quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi Hoạt động của các tổ chức tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng luôn có những rủi ro, trong đó mất khả năng thanh toán là rủi ro lớn nhất. Hậu quả có thể dẫn tới là hệ thống tài chính quốc gia bị tê liệt; xã hội bị bất ổn và niềm tin của các nhà đầu tư sẽ bị giảm sút. Và đây chính là lý do để Bảo hiểm tiền gửi Việt nam – DIV - ra đời với vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa quan trọng và hữu hiệu. Quy định về cơ quan thực hiện bảo hiểm tiền gửi Cơ quan nhận bảo hiểm là tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, có tên giao dịch quốc tế là Deposit Inurance of Việt Nam (viết tắt là DIV). Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tư cách.pháp nhân, có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong nước và nước ngoài, có con dấu, được Nhà nước cấp vốn điều lệ, được miễn nộp các loại thuế. Xét về phương diện lý thuyết, với tên gọi là tổ chức bảo hiểm thì tất nhiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải thực thi chức năng và nhiệm vụ mang tính chất truyền thống vốn có của một tổ chức bảo hiểm là chi trả bảo hiểm cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm. Tuy rằng tổ chức bảo hiểm ở đây có những đặc thù như: là tổ chức tài chính Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận; người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người gửi tiền, nhưng nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm lại là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, hoạt động của tổ chức bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc chi trả bảo hiểm theo nguyên lý “số đông bù cho số ít”, mà cần tiến tới giúp cho khách hàng nhận biết rủi ro, phân bố, quản lý, giám sát và kiểm soát rủi ro; ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp xảy ra rủi ro và cuối cùng mới là chi trả bảo hiểm nhằm bù đắp tổn thất khi xẩy ra rủi ro. Mặt khác, cũng cần xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng là luôn tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống; dễ gây ra hiệu ứng dây chuyền “đổ bể dây chuyền”. Do đó, rất cần tạo lập một hệ thống nhận biết rủi ro cũng như giám sát và kiểm soát rủi ro một cách đa chiều và hiệu quả. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ–CP ngày 01/09/1999 tuy có những quy định mới và tăng quyền chủ động cho tổ chứcbảo hiểm tiền gửi, nhưng nhìn chung về cơ bản không có gì thay đổi lớn về chức năng nhiệm vụ chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi so với quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ–CP. Xét theo phương diện lý luận và thực tiễn, thì rõ ràng là: Mô hình tổ chức BHTG phải được tạo lập sao cho chứa đựng và kết hợp được những yếu tố nói trên một cách thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam theo từng giai đoạn phát triển khác nhau. Việc Nghị định 89/1999/NĐ–CP và Nghị định 109/2005/NĐ–CP quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước độc lập, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần duy trì sự phát triển an toàn và lành mạnh hoạt động ngân hàng như hiện nay là phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của Việt Nam. Mặc dù là tổ chức tài chính Nhà nước nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi không thuộc diện cơ quan quản lý nhà nước và cũng không thuộc phạm trù các tổ chức bảo hiểm thương mại thông thường. Quy định về đối tượng tham gia Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ–CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi thì: “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.” bên cạnh đó các tổ chức này phải niêm yết công khai về việc tham gia bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở và các địa điểm giao dịch. Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là tổ chức, tài chính có nhận tiền gửi của công chúng dưới các hình thức nhất định. Với hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai thì sự tham gia của các tổ chức này là bắt buộc nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng, tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tượng đa dạng, tránh tình trạng chỉ có ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém mới mua bảo hiể
Luận văn liên quan