Đề tài Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam

Từ khi thoát khỏi chiến tranh và nhất là sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thì nước ta đã có những thay đổi mang tầm chiến lược nhằm khôi phục nền kinh tế cũng như văn hóa – xã hội, chính trị, an ninh – quốc phòng Đưa nước ta từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, dân trí thấp cho đến nay nước ta đã có nhữ,ng thành tựu đáng kể về nhiều mặt và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã có nhiều hiệu quả , để tiến tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được những thành tựu to lớn thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu chiến lược để nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn về tất cả các mặt. Vì thế nhóm em làm bài tiểu luận này để phân tích kĩ hơn về những chiến lược, chính sách của nước ta trong thời gian tới. Với vốn hiểu biết còn hạn chế và kinh nghiệm còn non kém nên bài viết còn nhiều sai xót, vì thế mong thầy và các bạn bổ sung để bài viết thêm sâu sắc. Chúng em xin chân thành cảm ơn./.

doc33 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ khi thoát khỏi chiến tranh và nhất là sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thì nước ta đã có những thay đổi mang tầm chiến lược nhằm khôi phục nền kinh tế cũng như văn hóa – xã hội, chính trị, an ninh – quốc phòng… Đưa nước ta từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, dân trí thấp… cho đến nay nước ta đã có nhữ,ng thành tựu đáng kể về nhiều mặt và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã có nhiều hiệu quả , để tiến tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được những thành tựu to lớn thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu chiến lược để nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn về tất cả các mặt. Vì thế nhóm em làm bài tiểu luận này để phân tích kĩ hơn về những chiến lược, chính sách của nước ta trong thời gian tới. Với vốn hiểu biết còn hạn chế và kinh nghiệm còn non kém nên bài viết còn nhiều sai xót, vì thế mong thầy và các bạn bổ sung để bài viết thêm sâu sắc. Chúng em xin chân thành cảm ơn./.  MỤC LỤC Khái quát Việt Nam Vị trí địa lí Tài nguyên thiên nhiên Văn hóa Phong tục tập quán Tín ngưỡng và tôn giáo Ngôn ngữ Văn học Nghệ thuật Xã hội Khái quát về con người Việt Nam Nguồn gốc Phân bố Chiến lược phát triển của Việt Nam Nông – Lâm - Ngư nghiệp Nông nghiệp Lâm nghiệp Ngư nghiệp II. Công nghiệp xây dựng Công nghiệp Thực trạng ngành công nghiệp nước ta thời gian qua Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp Xây dựng Thực trang ngành xây dựng nước ta thời gian qua Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển ngành xây dựng III. Dịch vụ thương mại Dịch vụ Quan điểm phát triển Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Định hướng chiến lược, phân kì, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản . Định hướng chiến lược . Phân kì, trọng diểm, phát triển . Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020 Định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ Vùng đồng bằng Vùng trung du miền núi Ven biển và hải đảo Phát triển dịch vụ tại khu vực nông thôn hướng tới xây dựng nông thôn mới e.Phát triển dịch vụ gắn với phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước Thương mại IV. Văn hóa xã hội V. Chính trị - an ninh quốc phòng 1. Chính trị 2. An ninh quốc phòng PHỤ LỤC: ( Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội 1987, tr. 12) (Nguyễn Thị Kim Ngân (Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội): Nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội. Tạp chí Cộng sản số tháng 7-2008, tr. 18) (Cơ quan Đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam: Đưa các mục tiêu thiên niên kỷ đến với người dân. Hà Nội 2002, tr. 17) (Nguồn: GS.TS. Phạm Xuân Nam Viện Khoa học xã hội Việt Nam) A.KHÁI QUÁT VIỆT NAM VỊ TRÍ ĐỊA LÍ Tổng diện tích: 331.212 km2 Tổng chiều dài các biên giới trên bộ: 4.639 km Đường bờ biển dài: 3.260 km (không tính các đảo) Điểm cực Bắc thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang Điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Rạch Tàu, huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau Điểm cực Tây ở A Pa Chải-Tá Miếu, thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên Điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh, Khánh Hòa Phía bắc tiếp giáp với Trung Quốc Phía nam với phía đông tiếp giáp với biển Đông Phía tây tiếp giáp với Lào và Campuchia II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN: Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên biển,  tài nguyên rừng, tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du lịch. Tài nguyên đất: Việt Nam có trên 39 triệu ha đất tự nhiên Tài nguyên nước: mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2.345 con sông có chiều dài trên 10 km, mật độ trung bình từ 1,5 – 2 km sông/1 km2 diện tích, cứ đi dọc bờ biển khoảng 20 km lại gặp một cửa sông Tài nguyên biển: Việt Nam có 3260 km bờ biển với vùng lãnh thổ rộng tới 226000 km2 Tài nguyên rừng: Nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi và rừng che phủ hơn 30% diện tích Tài nguyên sinh vật: Việt Nam là một quốc gia có sự đa dạng sinh học, hệ thực vật có khoảng 14.000 loài thực vật bậc cao có mạch; đã xác định được khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm, 600 loài rong biển. Tính đến nay đã xác định được ở nước ta có 275 loài thú, 1.009 loài và phân loài chim, 349 loài bò sát và lưỡng cư, 527 loài cá nước ngọt, khoảng 2.038 loài cá biển, 12.000 loài côn trùng, 1.600 loài động vật giáp xác, 350 loài động vật da gai, 700 loài giun nhiều tơ, 2.500 loài động vật thân mềm, 350 loài sa nhô được biết tên… Tài nguyên du lịch: Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh Tài nguyên khoáng sản: khoảng 5000 mỏ và điểm quặng, thuộc 60 loại khoáng sản III.VĂN HÓA Văn hóa Việt Nam là văn hóa của 54 dân tộc anh emVà cũng từ đây Văn hóa Việt Nam ngày càng tiếp tục phát triển với những thành thành tựu rực rỡ. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, các thời kì hỗn độn chia cắt đất nước, thời kì Pháp thuộc, thời kì chiến tranh với Mĩ văn hóa Việt Nam đã có nhiều nét đổi mới, phát triển. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới.Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hoá ngoại lai đồng hoá, trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc. Các dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Sau đây là cái nhìn khái quát về các lĩnh vực văn hoá chủ yếu: 1. Phong tục tập quán Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Cách thức chế biến món ăn cũng rất độc đáo giàu tính sáng tạo. Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ. Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng. Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và hội chùa. 2. Tín ngưỡng và tôn giáo Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Tín ngưỡng ở Việt Nam rất phát triển với nhiều tôn giáo lớn như : Hồi giáo, Tin lành, Thiên chúa giáo… và đặc biệt là Phật giáo. 3. Ngôn ngữ Ngôn ngữ Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm. Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hoá quan trọng. 4. Văn học Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Về nội dung văn học Việt Nam mang đậm tính dân tộc, tinh thần yêu nước bất khuất chống giặc ngoại xâm ở mọi thời kỳ. Thêm vào đó phản ánh đời sống nhân dân đặc biệt là thân phận người phụ nữ thông qua những câu hò, điệu hát,…phê phán những thoái hư tật xấu trong xã hội. Trong nền văn học Việt Nam đã xuất hiện những nhà văn lớn với những tác phẩm kiệt xuất. Tiếc rằng hiện nay chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng đất nước và thời đại. 5. Nghệ thuật Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất. Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc:ngâm thơ, hát ru, quan họ, ca Huế,bài chòi, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng, cải lương. Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung rất phát triển. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ nghệ thuật cao). Văn hoá dân tộc cổ truyền hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đứng trước những thách thức gay gắt của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá. Nhiều ngành văn hoá nghệ thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân. Hơn bao giờ hết đặt ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hoá mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc. Công cuộc đổi mới văn hoá đang tiếp tục... IV.XÃ HỘI Phát triển xã hội có thể được hiểu là sự vận động, biến đổi theo hướng tiến bộ, hợp quy luật, thuận lòng người của cơ cấu xã hội, các thiết chế xã hội, việc giải quyết các nhu cầu của đời sống con người trong xã hội và các mối quan hệ xã hội của con người. Hội nhập quốc tế (ở đây là hội nhập trên lĩnh vực xã hội) là tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế về xã hội, vận dụng các tiêu chí của quốc tế để đo trình độ phát triển xã hội của mình, mở rộng hợp tác quốc tế về lĩnh vực phát triển xã hội và đóng góp sáng kiến, kinh nghiệm của mình cho việc giải quyết những vấn đề xã hội chung của cộng đồng quốc tế. Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của thế kỷ trước), do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm mang nặng tính chủ quan, duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình cũ đã lỗi thời, cho nên chỉ mấy năm sau khi hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì đất nước đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Nhưng khi công cuộc đổi mới vừa thực hiện được mấy năm, và chỉ mới thu được một số kết quả bước đầu, khó khăn còn nhiều, thì trên thế giới đã liên tiếp xảy ra những biến động lớn, với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ, gây tác động tiêu cực về nhiều mặt đến tình hình nước ta. Thêm vào đó, Mỹ vẫn kéo dài cấm vận về kinh tế chống Việt Nam (cho đến đầu năm 1994), gây khó khăn không nhỏ cho sự phát triển của đất nước. Trên cơ sở tổng kết những sáng kiến của quần chúng nhân dân trong nước, đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tham khảo rộng rãi kinh nghiệm của thế giới, các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 1991 đến 2006) đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi xướng.thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo trong đường lối của Đảng thành hệ thống pháp luật, chính sách, chương trình, dự án để đưa vào cuộc sống. Kết quả là sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, mà ở đây chỉ tập trung trình bày những thành tựu về phát triển xã hội, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Đời sống nhân dân được cải thiện ,tình trạng suy thoái trì trệ ở thời kì bao cấp được đẩy lùi, đầu tư cho phát triển xã hội ngày càng tăng lên….Nhà nước thi hành các chương trình chính sách cho người có công,dân số và kế hoạch hóa gia đình, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục, phát triển y tế, xây dựng mạng lưới an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội... Nhận thức của xã hội về việc làm và giải quyết việc làm đã có sự chuyên biến. Từ 2001 đến 2005, con số người có việc làm tăng lên 1,4 - 1,5 triệu người. Ngoài ra, mỗi năm Việt Nam còn đưa khoảng 70.000 người đi xuất khẩu lao động tại một số nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập với thế giới về chính sách lao động như: đã lần lượt ký kết và thực hiện các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề nghiệp, xóa bỏ hình thức lao động trẻ em. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình đào tạo và đang được tiếp tục đổi mới để nâng cao chất lượng dạy và học. Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số - kế hoạch hóa gia đình thời kỳ 1991-2000 được thực hiện tốt đã đưa tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,1% xuống 1,36%. Theo đánh giá của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), giá trị chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có xu hướng tăng đều đặn và liên tục trong mấy chục năm qua: từ 0,590 năm 1985, lần lượt tăng lên 0,711 năm 2000 và 0,733 năm 2005. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Nhìn chung, sau gần 10 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, và từ năm 1996 đã bước sang giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nhức nhối do mặt trái của kinh tế thị trường sinh ra, đặc biệt khi vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, khi việc thực thi kỷ cương phép nước chưa nghiêm, là tệ tham nhũng, buôn lậu, kể cả buôn bán phụ nữ và trẻ em, và những tệ nạn xã hội khác như bạo lực gia đình, ma túy, mại dâm, kéo theo sự lây lan của bệnh HIV/AIDS... vẫn đang diễn biến phức tạp ở nhiều nơi. Từ những điều nói trên, một câu hỏi có ý nghĩa quan trọng được đặt ra đối với giới nghiên cứu lý luận và giới hoạt động thực tiễn của Việt Nam hiện nay là cần phải làm gì và làm thế nào để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những yếu kém còn lại của quá trình phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, công bằng và hội nhập với thế giới. Tóm lại, với những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 20 năm qua, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng tương lai phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong những năm sắp tới là sáng sủa và Việt Nam sẽ ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010, tiến tới trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, sánh vai với các nước bè bạn khắp năm châu, phấn đấu cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của cả nhân loại. III. Khái quát về Con Người Việt Nam Người Việt là một dân tộc có nguồn gốc tại miền Bắc Việt Nam. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng gần 90% dân số Việt Nam và được chính thức gọi là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt. 1. Nguồn gốc Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. 2. Phân bố Người Kinh là dân tộc đa số tại Việt Nam, tuy nhiên tại một số tỉnh miền núi phía Bắc. Người Kinh sống trên khắp các vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng, gần các con sông, và tại các khu đô thị. Hầu hết các nhóm dân tộc thiểu số (trừ người Hoa, người Khmer, người Chăm) sống tại các vùng trung du và miền núi. Người Mường sống chủ yếu trên các vùng đồi núi phía Tây đồng bằng sông Hồng, tập trung ở Hòa Bình và Thanh Hóa. Người Thái định cư ở bờ phải sông Hồng (Sơn La, Lai Châu). Người Tày sống ở bờ trái sông Hồng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên), người Nùng sống ở Lạng Sơn, Cao Bằng. Các nhóm dân tộc thiểu số khác không có các lãnh thổ riêng biệt; nhiều nhóm sống hòa trộn với nhau. B. CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM NÔNG NGHIỆP – LÂM NGHIỆP – NGƯ NGHIỆP Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Biểu đồ giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản của nước ta từ 1999-2003 Từ biểu đồ trên ta có thể thấy ở nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất có giá trị rất cao trong cơ cấu nông-lâm-ngư 1, Nông nghiệp: Việt Nam là một nước đang phát triển, nông nghiệp mới bắt đầu có sự chuyển dịch từ sản xuất tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa. Đúc kết kinh nghiệm trong nửa sau của thế kỷ 20 và tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực và thế giới, chúng ta có thể khẳng định con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam từ ở thế kỷ 21 là: nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở CNH-HĐH với mức độ phù hợp yêu cầu của nông nghiệp bền vững. Từ định hướng trên Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách, chiến lược trọng tâm như sau: Các vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn phải giải quyết đồng bộ gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy cao nội lực, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phát triển phải vững bền cả về tự nhiên và xã hội. Đảm bảo môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong sạch; thực phẩm vệ sinh; tài nguyên sinh học đa dạng; giảm thiểu rủi ro do bệnh tật, thiên tai và quá trình biến đổi khí hậu gây ra; thu hẹp khoảng cách về cơ hội phát triển giữa đô thị và nông thôn, giữa các nhóm cư dân nông thôn; hỗ trợ người nghèo, những nhóm đối tượng khó khăn trong quá trình phát triển Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hoá, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hoà giữa các vùng, đặc biệt tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị giữ vai trò làm chủ nông thôn mới. Tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo. Nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8-9 tỷ USD/năm. Đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, nhanh chóng ứng
Luận văn liên quan