Đề tài Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp

Trong các khoản thu ngân sách nhà nước, thuế là nguồn thu chiếm tỉ trọng chủ yếu và cũng là nguồn thu mang tính chất bền vững nhất. Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định nhiều loại thuế khác nhau như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp Bài tiểu luận sau sẽ đề cập đến hai loại thuế là thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây đều là hai sắc thuế quan trọng và có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội của đất nước

docx17 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2697 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong các khoản thu ngân sách nhà nước, thuế là nguồn thu chiếm tỉ trọng chủ yếu và cũng là nguồn thu mang tính chất bền vững nhất. Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định nhiều loại thuế khác nhau như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp… Bài tiểu luận sau sẽ đề cập đến hai loại thuế là thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây đều là hai sắc thuế quan trọng và có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội của đất nước Bài làm Mục 1: Thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một sắc thuế quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt trong thời kỳ xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang phát triển mạnh. Việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vừa là một thành công nhưng cũng vừa là một thách thức. Mà một trong những thách thức chúng ta phải đối mặt sau khi gia nhập WTO đó là cải cách thuế nhập khẩu. Vậy việc chúng ta hội nhập kinh tế thế giới và những yếu tố chính trị, xã hội khác có ảnh hưởng như thế nào đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu hiện tại? Bài tiểu luận sau sẽ đưa ra một số ý kiến nhỏ để trả lời cho câu hỏi đó. Khái quát chung về thuế nhập khẩu và pháp luật thuế nhập khẩu Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế nhập khẩu Hiện nay chưa có một định nghĩa chính xác về thuế nhập khẩu được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, dựa trên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 ta có thể tạm thời đưa ra định nghĩa như sau: thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào hàng hóa được nhập khẩu vào những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật Hải quan được áp dụng. Thuế nhập khẩu có những đặc điểm cơ bản sau: Đối tượng chịu thuế nhập khẩu là các hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới, dịch vụ không phải là đối tượng chịu thuế nhập khẩu; Thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hay thuế gián thu. Thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò rất quan trọng và trong nhiều trường hợp vượt ra bên ngoài phạm vi nền kinh tế của một quốc gia: Thuế nhập khẩu không chỉ trực tiếp tạo ra nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn có tác động tới số thu ngân sách từ những sắc thuế khác gắn với hoạt động kinh doanh như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,… Thuế nhập khẩu là công cụ điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà nước đối với nền kinh tế. Thuế nhập khẩu có vai trò hỗ trợ và bảo hộ nền sản xuất trong nước, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng ngoại nhập. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế nhập khẩu Người nộp thuế và người thu thuế Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 quy định đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Theo nguyên tắc thì người nộp thuế phải thỏa mãn hai điều kiện sau: thứ nhất, đó là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài; thứ hai, hàng hóa do chủ thể đó nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu. Trong thực tiễn, người nộp thuế nhập khẩu thường là người nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa cho chủ thể khác hoặc người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cho chính mình. Nhà nước trên phương diện lý luận chính là người thu thuế song trên thực tế có rất nhiều cơ quan khác nhau do nhà nước lập ra để thực hiện việc đó. Trong lĩnh vực hành thu thuế nhập khẩu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức việc thu thuế nhập khẩu là Tổng cục Hải quan (Điều 27 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005; Điều 11 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005). Ngoài ra nhà nước còn trao quyền rộng rãi cho một số cơ quan khác cùng phối hợp với Tổng cục Hải quan như Bộ tài chính, Kho bạc nhà nước, Tổng cục thuế, Ủy ban nhận dân các cấp chính quyền… tham gia vào quá trình hành thu thuế nhập khẩu. Căn cứ tính thuế nhập khẩu: trị giá hải quan và thuế suất Trị giá hải quan hay trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu. Doanh nghiệp được phép tự xác định trị giá tính thuế cho hàng hóa của mình, tự xác định số thuế phải nộp, thực hiện nộp thuế vào ngân sách nhà nước, sau đó khai báo với cơ quan hải quan để làm thủ tục giải phóng hàng. Đối với cơ quan hải quan, khi làm thủ tục nhập khẩu cho hàng hóa, cán bộ hải quan chỉ kiểm tra trị giá khai báo có thống nhất với chứng từ kèm theo không và kiểm tra tính hợp pháp của các chứng từ đó. Nếu không có vướng mắc, trị giá khai báo sẽ được chấp nhận. Còn nếu có nghi ngờ thì họ sẽ yêu cầu doanh nghiệp xuất trình thêm các bằng chứng chứng minh cho các trị giá đã khai báo. Thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu bao gồm: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đại và thuế suất ưu đãi đặc biệt (khoản 2 Điều 10 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005). Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu Nội dung các quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu Việc thực thi các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu trước tiên bị ảnh hưởng rất nhiều vào yếu tố nội tại, đó là nội dung của chính các quy định đó. Nếu các quy định của pháp luật có nội dung chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn tình hình kinh tế, xã hội, chính trị thì đương nhiên tính ứng dụng của chúng cũng cao. Ngược lại nếu các quy định lỏng lẻo, không ổn định thì sẽ tạo ra sự không thống nhất, thiếu chính xác khi thực thi. Hoặc nếu quy định không còn phù hợp với thực tiễn thì sẽ gây ra sự trì trệ, thậm chí không thể thực thi được do không thiết thực. Ví dụ như biểu thuế, biểu mô tả hàng hóa về chủng loại, hình dạng, chất lượng hiện nay mới chỉ được miêu tả bằng ngôn ngữ viết mà không có hình ảnh nên việc đối chiếu khi kiểm tra vẫn hay nhầm lẫn. Đặc biệt đối với một số hàng hóa nếu chỉ dùng ngôn ngữ viết thôi không thể mô tả được chính xác đặc điểm của nó, có thể là hàng hóa có cấu tạo phức tạp hoặc hàng hóa mới, chưa phổ biến. Từ đó gây khó khăn cho chủ thể thực thi pháp luật, thậm chí dẫn tới áp dụng sai hoặc bỏ sót. Một ví dụ khác đó là quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Hải quan sửa đổi và bổ sung năm 2005. Ở đây quy định trường hợp hàng hóa nhập khẩu của chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan thì được miễn kiểm tra thực tế. Quy định như vậy liệu có quá chủ quan bởi không thể nào có thể khảng định chắc chắn người đã thực hiện tốt pháp luật thì không thể vi phạm trong tương lai. Đội ngũ cán bộ hải quan Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu là đội ngũ cán bộ hải quan – chủ thể trực tiếp thực thi. Đây cũng là một yếu tố tiên quyết bởi nếu người thực thi pháp luật còn không làm tốt nhiệm vụ của mình thì làm sao có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chấp hành pháp luật chấp hành tốt. Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng và thuế xuất nhập khẩu nói chung, những năm qua các cơ quan hải quan không ngừng hoàn thiện đội ngũ cán bộ trong ngành. Tuy nhiên do đâu mà đội ngũ cán bộ hải quan hiện nay vẫn bị cho là không cân xứng với yêu cầu thực tế? Phần lớn cán bộ của ngành hải quan tuy có nhận thức về đường lối chính sách của Đảng, về tư tưởng Mác – Lê-nin và Hồ Chí Minh nhưng khi chuyển sang kinh tế thị trường, đa số họ tỏ ra lúng túng, trì trệ, số còn lại thì biến chất, tha hóa, chạy theo những cám dỗ, vụ lợi của đồng tiền. Tất cả gây ảnh hưởng không tốt đến việc thực thi pháp luật thuế. Các quy định của pháp luật thuế nếu không vô tình thì cũng cố ý bị áp dụng sai, thiếu chính xác, tạo điều kiện cho các hành vi gian lận. ví dụ như việc xác định trị giá hải quan, nếu không tính toán thông thạo, không cập nhật chính xác các cơ sở dữ liệu về giá thì đã vô tình tạo điều kiện cho chủ hàng thực hiện hành vi gian lận. Một tình trạng khác đó là sự thiếu thốn của đội ngũ cán bộ hải quan. Thiếu những người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu kỹ năng quản lý, thiếu kiến thức về kinh tế, thị trường và thiếu các kiến thức phổ thông khác như tin học, ngoại ngữ, đặc biệt thiếu tinh thần tận tâm, có trách nhiệm với công việc. Nếu những tình trạng trên của đội ngũ cán bộ hải quan không được cải thiện và khác phục thì không thể đảm bảo cho việc thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu Ý thức chấp hành pháp luật của nhà nhập khẩu Khi nói về việc thực thi bất kỳ một đạo luật nào trong cuộc sống không thể không nói tới ý thức pháp luật của người dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội do đạo luật đó điều chỉnh. Cụ thể đối với các quy định của luật nhập khẩu, một trong số những chủ thể tham gia vào phải kể đến các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên ý thức pháp luật của những chủ thể này lại đặc biệt yếu kém. Mỗi khi cơ quan nhà nước có chính sách mới về xuất nhập khẩu là ngay lập tức các chủ thể đó cũng nghiên cứu tìm ra phương pháp đối phó với chính sách mới đó. Thời gian gần đây, các nhà nhập khẩu thường lợi dụng những bất cập sơ hở của các chính sách ưu đãi, cơ chế quản lý để vi phạm, ví dụ như việc lợi dụng phân luồng ưu tiên miễn kiểm tra thực tế hàng hóa, khai sai tên, mã hàng, chủng loại, số lượng hay lợi dụng loại hình tạm nhập, tái xuất… Do đó để thực thi pháp luật thuế nhập khẩu tốt thì phải nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật thuế nhập khẩu của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên đây là một nhiệm vụ không dễ dàng vì hầu hết các nhà nhập khẩu khi tham gia vào quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa đều “tham lam” mong muốn lợi ích tối đa cho bản thân mà không nghĩ tới lợi ích của nhà nước cũng như lợi ích chung của cộng đồng. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước Thực tiễn trong nước hay nói cụ thể hơn là tình hình kinh tế, chính trị trong nước mỗi thời kỳ cũng sẽ có những tác động khác nhau vào nội dung của pháp luật cũng như việc thực thi chúng. Trước những diễn biến của tình hình kinh tế trong nước, nhà nước sẽ đưa ra những chính sách để điều chỉnh mà một trong những công cụ để thực hiện các chính sách điều chỉnh đó là thuế nhập khẩu. Ví dụ: pháp luật thuế nhập khẩu là một công cụ bảo hộ nền sản xuất trong nước do đó nếu sau khi nắm bắt diễn biến của thị trường, xem xét khả năng cạnh tranh của hàng nội với hàng ngoại mà nhà nước nhận thấy trong một ngành cụ thể, hàng nội bị lép vế so với hàng ngoại thì khi đó luật thuế nhập khẩu sẽ có sự điều chỉnh, thông thường theo hướng tăng thuế suất, đồng nghĩa với việc làm giảm sức cạnh tranh ít nhất là về giá của mặt hàng ngoại nhập đó. Nhưng trong điều kiện hiện nay tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất yếu thì nhà nước cũng như pháp luật thuế nhập khẩu không thể tiếp tục chính sách bảo hộ đó được. Mặt khác không thể hoàn toàn chỉ nhìn vào kinh tế để điều chỉnh luật nhập khẩu được mà còn phải nhìn nhận tới các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Ở nhiều nước, thuế nhập khẩu còn là một công cụ thực hiện các ý đồ chính trị, ví dụ như việc áp đặt thuế suất cao cho hàng hóa nhập khẩu xuất xứ từ nước mà nước nhập khẩu muốn trả đũa hoặc những mức thuế nhập khẩu ưu tiên cho các nước đồng minh, thân cận, trong cùng khu vực hoặc cùng tham gia và một hiệp định hợp tác nào đó. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam Năm 1998, Việt Nam bắt đầu có những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế nhập khẩu để thực hiện cam kết giảm thuế theo quy định của AFTA. Sau đó năm 2001 Việt Nam cũng có những ưu đãi trong chính sách thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của Hoa kỳ và gần đây nhất là những thay đối nhằm thực hiện các cam két cắt giảm thuế quan khi gia nhập WTO. Như vậy việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu đang bị ảnh hưởng rất nhiều từ xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam gia nhập WTO từ ngày 7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên từ ngày 15/1/2007. Trước khi gia nhập, Việt nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật trong đó có Luật thuế xuất nhập khẩu. Sau khi gia nhập Việt Nam lại tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế xuất nhập khẩu theo hướng phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), trong đó có ba nguyên tắc quan trọng: Chỉ được phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan, không cho phép hạn chế định lượng trừ những trường hợp đặc biệt; thuế quan phải giảm dẫn và bị rằng buộc không tăng trở lại; nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm cả đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Như vậy việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải đi theo hướng phù hợp với các nguyên tắc đó. Mục 2: Thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng là một sắc thuế quan trọng trong pháp luật của Việt Nam. Thuế thu nhập doanh nghiệp có những đặc điểm hoàn toàn khác với thuế nhập khẩu. Nhưng cũng giống như các sắc thuế khác trong thời đại hiện nay, thực trạng thi hành pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn đang còn tồn tại nhiều bất cập. dưới đây em xin đề xuất một số ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt thuế thu nhập doanh nghiệp. Khái quát chung về thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào các tổ chức kinh doanh có thu nhập nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng thu cho ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập doanh nghiệp phân biệt với các loại thuế khác ở các đặc điểm sau: Thứ nhất, đối tượng tính thuế là thu nhập của doanh nghiệp. Cùng là thuế thu nhập nhưng đối tượng chịu thuế của thuế thu nhập doanh nghiệp khác với đối tượng chịu thuế của thuế thu nhập cá nhân. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, đó là thu nhập của tổ chức có được từ hoạt động kinh doanh còn đối với thuế thu nhập cá nhân lại là thu nhập của cá nhân. Là một loại thuế trực thu, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có đối tượng tính thuế khác hẳn với bất kỳ một loại thuế gián thu nào. Thứ hai, thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế phức tạp, thiếu ổn định, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế thường lớn hơn so với các loại thuế khác. Thứ ba, các quan hệ xã hội nảy sinh từ việc thu – nộp thuế thu nhân doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh đồng thời của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế bởi thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu nên nó có thể là đối tượng được điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Đối tượng nộp thuế Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các tổ chức có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Tổ chức đó có thể là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật hoặc là tổ chức khác có họat động sản xuất kinh doanh. Việc quy định đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thường có sự phân biệt đối tượng thường trú và không thường trú. Đối tượng được coi là thường trú có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu nhập mà không phân biệt thu nhập đó phát sinh ở nước sở tại hay nước ngoài. Còn đối tượng được coi là không thường trú chỉ phải nộp thuế đối với khoản thu nhập phát sinh ở nước sở tại. Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế là các số liệu cơ bản để xác định số thuế phải nộp. căn cứ tính thuế thường được xác đinh dựa trên đối tượng tính thuế và mức thuế suất được áp dụng cho từng đối tượng tính thuế. Do thuế thu nhập doanh nghiệp có đối tượng tính thuế là thu nhập phát sinh nên một trong những nội dung quan trọng của luật thuế là xác định thu nhập chịu thuế. Không phải mọi khoản thu nhập đều là thu nhập chịu thuế mà chỉ một số khoản thu nhập đáp ứng những điều kiện nhất định mới là thu nhập chịu thuế. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã phát sinh và nhà nước có thể kiểm soát được. Ngoài đối tượng tính thuế, thuế suất là một yếu tố quan trọng trong căn cứ tính thuế. Thuế suất là mức tiền phải nộp trên một đơn vị đối tượng chịu thuế. Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, Việt Nam áp dụng thuế suất tỷ lệ có phân biệt giữa một số ngành nghề kinh doanh. Mức thuế áp dụng phổ biến là 25% của thu nhập tính thuế, tuy nhiên đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác thì thuế suất là từ 32% đến 50%. Các mức thuế ưu đãi 10%, 20% được áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn nằm trong chính sách khuyến khích phát triển của nhà nước. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Sau nhiều năm thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 cùng với bốn lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đạt được một số thành tựu nhất định. Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đã tương đối hoàn thiện, các chính sách nhìn chung là phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. thuế thu nhập doanh nghiệp tiếp tục góp phần quan trọng bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, kiểm soát thu nhập của các doanh nghiệp, tổ chức. công tác thanh tra, kiểm tra cũng có nhiều đổi mới theo hướng quy mô, chặt chẽ hơn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp không tránh khỏi một số bất cập còn tồn tại. bên cạnh các yếu kém chung như trình độ đội ngũ công chức thuế còn thấp, đặc biệt trong công tác thanh tra thuế, các văn bản pháp luật thuế khi thì chồng chéo, khi thì thiếu sót và ý thức tự giác của người nộp thuế chưa cao thì có thể chỉ ra một số hạn chế cụ thể sau Việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ kinh doanh cá thể còn gặp nhiều khó khăn Khó khăn thường gặp khi áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ kinh doanh cá thể đó là việc khó xác định đối tượng nộp thuế hay nói cách khác là hộ kinh doanh nào phải nộp thuế. Sở dĩ như vậy vì quy mô sản xuất, kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể thường nhỏ lẻ, không có cơ chế quản lý bài bản, chặt chẽ. Đồng thời các quy định của pháp luật cũng chưa cụ thể, chính xác khiến không chỉ bản thân các hộ không xác định hoặc không biết mình có thuộc diện nộp thuế hay không mà ngay cả các cơ quan thuế cũng khó xác định. Điều này đã dẫn đến thực trạng là có những hộ tuy quy mô sản xuất nhỏ, lợi nhuận thấp nhưng vẫn thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, ngược lại có những hộ đáng lẽ phải nộp thuế thì cơ quan thuế lại bỏ sót và dĩ nhiên bản thân các hộ đó cũng không nhận thức được, mà nếu có nhận thức được họ cũng sẽ không tự giác tự nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Một khó khăn nữa là trong việc xác định thu nhập chịu thuế của hộ kinh doanh cá thể. Đối với các doanh nghiệp – các tổ chức có cơ chế kiểm toán, hạch toán chặt chẽ - việc xác định thu nhập chịu thuế còn gây nhiều tranh cãi nữa là đối với các hộ kinh doanh cá thể, không có cơ chế kiểm toán, hạch toán rõ ràng, cụ thể và rất khó phân biệt tài sản để sản xuất kinh doanh của hộ và tài sản tiêu dùng. Pháp nhân kinh doanh vi phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp dường như bị bỏ qua. Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ pháp luật thuế. Tuy nhiên trong thực tiễn nguyên tắc này
Luận văn liên quan