Đề tài Phân tích chế định chủ tịch nước theo quy định của pháp luật hiện hành

Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Trong cơ chế nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Dưới đây, bằng sự hiểu biết của mình thông qua các kiến thức đã học được và qua các tài liệu, em xin được trình bày đề tài : “ Phân tích chế định chủ tịch nước theo quy định của pháp luật hiện hành”.

doc8 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích chế định chủ tịch nước theo quy định của pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.LỜI MỞ ĐẦU Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Trong cơ chế nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Dưới đây, bằng sự hiểu biết của mình thông qua các kiến thức đã học được và qua các tài liệu, em xin được trình bày đề tài : “ Phân tích chế định chủ tịch nước theo quy định của pháp luật hiện hành”. B. NỘI DUNG 1. Chế định về Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp trước đây ( Hiến pháp 1946, 1959, 1980). Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công với sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2/9/1945, nước ta đã là một nước cộng hòa mang chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Từ đó cho đến nay, Bộ máy Nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng cũng được tổ chức theo mô hình đó. Nguyên thủ quốc gia ở nước ta là chủ tịch nước. Tuy nhiên qua các thời kì khác nhau, chế định nguyên thủ quốc gia cũng được tổ chức khác nhau. Điều đó được thể hiện cụ thể qua các bản Hiến pháp. Dưới đây là những khái quát về chế định này qua các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980. Hiến pháp đầu tiên của nước ta là bản Hiến pháp 1946. Trong bản Hiến pháp này, chưa có chương riêng về Chủ tịch nước. Chủ tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu ra trong số các thành viên của nghị viện (không quy định độ tuổi tối thiểu của Chủ tịch nước). Nhiệm kì của Chủ tich nước là 5 năm (Điều 45), độc lập với nghị viện là 3 năm (Điều 24). Vai trò và quyền hạn của Chủ tịch nước là vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu chính phủ (Điều 44, Điều 49). Quyền hạn của CTN rất rộng lớn (Điều 49) thay mặt cho Nhà nước, là tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, có quyền chủ trì các phiên họp của Chính phủ, có quyền ban hành các sắc lệnh có giá trị như luật, có quyền phủ quyết tương đối (Điều 31), thảo luận và biểu quyết lại về sự bất tín nhiệm với Nội các (Điều 54). Trong khi nắm quyền lực cao như vậy nhưng Chủ tịch nước không chịu một trách nhiệm nào trừ tội phản bội Tổ quốc (Điều 50). Như vậy, quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn và khá giống với mô hình nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị. Tóm lại chế định Chủ tịch nước - Nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp năm 1946 xây dựng khá độc đáo. Nó vừa đảm bảo được quyền lực Nhà nước thống nhất vào cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước cao nhất của nhân dân, vừa đảm bảo tăng cường quyền hạn cho Chính phủ điều hành công việc quốc gia mạnh mẽ và hiệu quả phù hợp với yêu cầu kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ. Sang đến bản Hiến pháp thứ hai của nước ta, Hiến pháp 1959, Chế định nguyên thủ quốc gia được quy định tại chương V. Nguyên thủ quốc gia do Quốc hội bầu nhưng không nhất thiết là đại biểu Quốc hội và phải từ 35 tuổi trở lên. Nhiệm kì bằng nhiệm kì Quốc hội là 4 năm. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, không còn đồng thời là người đứng đầu Chính phủ nữa. Tuy nhiên Chủ tịch nước là sự phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ. Quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn khá lớn : Căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; công bố lệnh đại xá và đặc xá ; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (Điều 63). Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn Hiệp ước kí với nước ngoài (Điều 64). Khi cần thiết được tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng chính phủ (Điều 66). Chủ tịch nước cũng có quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt khi xét thấy cần thiết (Điều 67). Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Hiến pháp 1980 có những điểm khác biệt so với các bản Hiến pháp trước và Hiến pháp 1992. Chế độ Nguyên thủ tập thể, là Hội đồng Nhà nước (HĐNN), quy định tại chương VII, do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu của Quốc hội : Chủ tịch HĐNN, Phó chủ tịch HĐNN, tổng thư kí và các Ủy viên HĐNN. HĐNN cùng nhiệm kì với Quốc hội là 5 năm. HĐNN là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội (Điều 98). Quyền hạn của HĐNN rất lớn (Điều 100): Công bố luật, ra pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái Hiến pháp, Luật và pháp lệnh. Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Bộ trưởng…(Tuy nhiên không có quyền tham dự vào các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng). HĐNN phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định; có quyền quyết định đặc xá; trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (nhưng phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kì họp gần nhất của Quốc hội)… Như vậy, HĐNN vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước (NTQG), vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Với cách thức tổ chức như thế này có những điểm tích cực và tiêu cực. Quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số nên tránh được những thiếu sót chủ quan, bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn. Đó là mặt tích cực, tuy nhiên, mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể, quyết định theo đa số nên thường chậm chạp hơn, không phan định rõ hoạt động của cơ quan thường trực của Quốc hội và chức trách của cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động, nhất là hoạt động đại diện nhà nước. 2 . Chế định Chủ tịch nước theo quy định của pháp luật hiện hành. Chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) ngày càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Một yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1980, trong đó có chế định Chủ tịch nước. Chế định Chủ tịch nước được quy định trong chương VII từ Điều 101 đến Điều 108 và được sử đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001. 2.1. Vị trí, tính chất, việc bầu cử Chủ tịch nước. Điều 101 Hiến pháp năm 1992 quy định :"Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Như vậy quy định này của Hiến pháp cho thấy rõ được vị trí, tính chất của Chủ tịch nước. Về việc bầu cử chủ tịch nước, mỗi bản hiến pháp lại có cách chọn người khác nhau nhưng đều do Quốc hội bầu ra. Hiện nay thì Chủ tịch nước được bầu ra trong số đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu. Điều này đảm bảo cho sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội là năm năm, khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới . Vấn đề này được quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 1992). 2.2. Thẩm quyền của Chủ tịch nước Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề), và ở một số điều khoản khác có liên quan (Như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm: 2.2.1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại. Xuất phát từ vị trí tính chất của Chủ tịch nước đó là người đứng đầu nhà nước và thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại nên Chủ tịch nước ta cũng như hầu hết các các nguyên thủ quốc gia đều được quy định các thẩm quyền này. Cụ thể : - Chủ tịch nước "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định" (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, Chủ tịch nước quyết định việc kí kết điều ước với danh nghĩa Nhà nước và những điều ước quốc tế có điều khoản trái với Luật hoặc Pháp lệnh. Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, kí kết hoặc uỷ quyền trưởng đoàn đàm phán kí kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết định của Chủ tịch nước về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc kí kết phối hợp với Bộ ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hoặc trình Quốc hội phê chuẩn. Và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm đó là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp kí. - Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam" (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). - Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Trong điểm 2 này có điểm khác Điều 49 Hiến pháp năm 1946. Tại Điều 49 quy định Chủ tịch nước "giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc...", còn trong các bản Hiến pháp sau từ “tổng chỉ huy” được thay bằng từ "thống lĩnh". "Thống lĩnh" khác "tổng chỉ huy" ở chỗ "thống lĩnh" không phải là trực tiếp chỉ huy mà là phụ trách chung. Để thực hiện chức năng này, Chủ tịch nước thường có Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và đứng đầu Hội đồng đó. Trên là các thẩm quyền liên quan đến đối ngoại, trong đối nội thì : - Chủ tịch nước "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). - Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương" (Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Ta có thể hiểu điều này như sau: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp...(Điểm 10, Điều 91, Hiến pháp 1992), Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà ra lệnh tổng động viên, ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương. - Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá" (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). - Chủ tịch nước "Quyết định đặc xá" (Điểm 12 Điều 102 Hiến pháp năm 1992). Đọc qua rất dễ nhầm lẫn hai quy định này. Ở đây cần làm rõ hai chế định "đặc xá" và "đại xá". Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn... Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án. 2.2.2Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. * Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền: - Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 luật tổ chức Quốc hội). - "Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh" (Điểm 1 Điều 103). Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. "Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 52 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh. Hiện tại thì quyền này của Chủ tịch nước chưa được đưa vào Hiến pháp mà mới chỉ được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Từ đây ta thấy được sự gắn bó chặt chẽ của Chủ tịch nước và Quốc hội. Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội) (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các Nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn 10 ngày); nếu Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Nay Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp được và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước không còn thực hiện các quyền này nữa. * Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, còn việc bổ nhiệm chánh án, phó chánh án và thẩm phán tòa án các cấp được giao cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện, khác với trước đây, Chủ tịch nước có quyền này. Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 106 Hiến pháp năm 1992). 2.3. Quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước khác. Qua các chức năng nhiệm vụ của Chủ tịch nước được nêu ở trên, ta đều thấy được sự gắn kết chặt chẽ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan khác của bộ máy nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các mối quan hệ đó làm nên bộ máy Nhà nước theo quan điểm cơ bản đã được khẳng định là: toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội, và có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với quy định "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước"(Điều 101 Hiến pháp năm 1992), các quy định khác về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thể hiện rõ quan điểm đó. 3. Nhận xét, đánh giá H
Luận văn liên quan