Đề tài Phân tích hiệu quả hoạt kinh doanh của công ty cà phê 49 và những giải pháp nâng cao hiệu quả

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Chính điều này tạo ra sự liên kết ngày càng phụ thuộc nhau giữa các quốc gia, các khu vực và ngay ở các vùng trong một quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi bức thiết của đất nước. Trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và X đã khẳng định phải "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy nhanh, có hiệu quả, bền vững". Việt Nam được kết nạp chính thức vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 07/01/2006 và tổ chức thành công hội nghị diễn đàn thương mại Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/2006 đã mở ra cơ hội trong hội nhập kinh tế vô cùng to lớn, nhưng lại gặp phải không ít thách thức. Thực tiễn chỉ ra, chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế thì chúng ta mới tạo được những thế đứng mới trên thương trường Quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công bằng, chúng ta mới tranh thủ được những nguồn vốn, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến,. Để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế quốc tế và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp trong cả nước phải mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn. Công ty cà phê 49 (từ tháng 08/2010 chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê 49) là DNNN trực thuộc Tổng Công ty cà phê Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 284/NN-TCCB ngày 07/03/1993 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm nay là Bộ NN và PTNT. Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 100344 do trọng tài kinh tế tỉnh ĐắLắk cấp ngày 23/06/1993. Hoạt động chính của công ty là: Sản xuất, chế biến, kinh doanh cà phê, nông sản; cung ứng vật tư thiết bị nông nghiệp, vật liệu xây dựng, hàng hóa tiêu dùng khác. Phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống. Tác động của việc hội nhập kinh tế và gia nhập WTO đến phát triển kinh tế không chỉ đối với cả nước, với các vùng, mà còn tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp. Cũng như các DN khác, Công ty cà phê 49 cũng gặp không ít khó khăn và cơ hội. Vấn đề ở đây là trong điều kiện tác động của hội nhập, nước ta nói chung và các doanh nghiệp trong ngành cà phê nói riêng, cần phải có những giải pháp thích hợp để giảm thiểu những mặt bất lợi và khai thác tối đa những cơ hội của nó. Nếu không có giải pháp đúng thì khó có thể phát triển nhanh và nền kinh tế có nguy cơ kém phát triển và tụt hậu so với các doanh nghiệp khác là rất lớn.

doc51 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2895 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả hoạt kinh doanh của công ty cà phê 49 và những giải pháp nâng cao hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải trực diện với sự biến động phức tạp, cạnh tranh gay gắt và chấp nhận nhiều rủi ro của môi trường kinh doanh. Để đứng vững trên thị trường và mở rộng kinh doanh, đảm bảo sự ổn định và phát triển không ngừng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp với sự biến động của thị trường và nội lực của doanh nghiệp . Đây là một việc làm hết sức cần thiết của các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và Công ty cà phê 49 nói riêng. Vận dụng những kiến thức lý luận tích lũy được trong thời gian học tập, qua tìm hiểu hoạt động kinh doanh của Công ty cà phê 49, tôi nhận thấy công tác hoạch định chiến lược của Công ty còn mang tính chủ quan, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tính hệ thống và cơ sở khoa học chưa cao. Do đó, tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu đề tài trước khi thi tốt nghiệp Đại học QTKD là: PHÂN TÍCH SWOT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC,ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CÀ PHÊ 49 Trên cơ sở phân tích sự biến động của môi trường kinh doanh, với đề tài này chúng ta sẽ thấy được tầm quan trọng của công tác phân tích hiệu quả, hoạch định chiến lược tại Công ty; chỉ ra những cơ hội cần nắm bắt, những rủi ro mà doanh nghiệp cần đối phó; phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu của Công ty để Công ty xây dựng một chiến lược kinh doanh thích hợp trong tương lai thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Nội dung chính chuyên đề gồm 4 phần: Phần Thứ nhất : MỞ ĐẦU Phần Thứ Hai : TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Phần Thứ Ba : ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phần Thứ Tư : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Phần Thứ Năm : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ PHẦN THỨ NHẤT MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Chính điều này tạo ra sự liên kết ngày càng phụ thuộc nhau giữa các quốc gia, các khu vực và ngay ở các vùng trong một quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi bức thiết của đất nước. Trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và X đã khẳng định phải "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy nhanh, có hiệu quả, bền vững". Việt Nam được kết nạp chính thức vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 07/01/2006 và tổ chức thành công hội nghị diễn đàn thương mại Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/2006 đã mở ra cơ hội trong hội nhập kinh tế vô cùng to lớn, nhưng lại gặp phải không ít thách thức. Thực tiễn chỉ ra, chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế thì chúng ta mới tạo được những thế đứng mới trên thương trường Quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công bằng, chúng ta mới tranh thủ được những nguồn vốn, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến,... Để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế quốc tế và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp trong cả nước phải mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn. Công ty cà phê 49 (từ tháng 08/2010 chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê 49) là DNNN trực thuộc Tổng Công ty cà phê Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 284/NN-TCCB ngày 07/03/1993 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm nay là Bộ NN và PTNT. Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 100344 do trọng tài kinh tế tỉnh ĐắLắk cấp ngày 23/06/1993. Hoạt động chính của công ty là: Sản xuất, chế biến, kinh doanh cà phê, nông sản; cung ứng vật tư thiết bị nông nghiệp, vật liệu xây dựng, hàng hóa tiêu dùng khác. Phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống. Tác động của việc hội nhập kinh tế và gia nhập WTO đến phát triển kinh tế không chỉ đối với cả nước, với các vùng, mà còn tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp. Cũng như các DN khác, Công ty cà phê 49 cũng gặp không ít khó khăn và cơ hội. Vấn đề ở đây là trong điều kiện tác động của hội nhập, nước ta nói chung và các doanh nghiệp trong ngành cà phê nói riêng, cần phải có những giải pháp thích hợp để giảm thiểu những mặt bất lợi và khai thác tối đa những cơ hội của nó. Nếu không có giải pháp đúng thì khó có thể phát triển nhanh và nền kinh tế có nguy cơ kém phát triển và tụt hậu so với các doanh nghiệp khác là rất lớn. Vì vậy nghiên cứu hội nhập, nghiên cứu những tác động của hội nhập kinh tế đến các doanh nghiệp, đề xuất những giải pháp nhằm tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh tế - xã hội của đất nước trở thành một vấn đề cấp thiết. Xuất phát từ những nhận thức trên tôi xin chọn đề tài "Phân tích hiệu quả hoạt kinh doanh của Công ty Cà phê 49 và những giải pháp nâng cao hiệu quả" 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích các tác động của hội nhập đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty để tìm ra các yếu tố hội nhập tác động đến Công ty Cà phê 49 ĐăkLăk. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cà phê 49 đối với hội nhập kinh tế. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Các mối quan hệ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong quá trình hội nhập kinh tế. 1.4 Phạm vi nghiên cứu 1.4.1 Không gian Đề tài được thực hiện tại Công ty cà phê 49. Địa chỉ: Xã Xuân Phú, Krông Năng , ĐăkLăk 1.4.2 Thời gian Số liệu trong đề tài được sử dụng để nghiên cứu trong ba năm từ 2007 đến 2009, thời gian nghiên cứu từ ngày 02 /07/2010 đến ngày 20/09/2010. 1.4.3 Nội dung Tìm hiểu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích tác động của quá trình hội nhập đến công ty . Phân tích thuận lợi khó khăn, cơ hội, thách thức từ đó phát huy thế mạnh hạn chế những nhược điểm của công ty. Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp để công ty hoạt động có hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập. PHẦN THỨ HAI TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Khái niệm và bản chất của toàn cầu hóa kinh tế : - Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế: Về mặt kinh tế, có thể hiểu toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động… vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành mạng lưới qua hệ đa tuyến vận hành theo các "luật chơi chung" được hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau. - Bản chất của toàn cầu hóa kinh tế: Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội khác, toàn cầu hóa kinh tế phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng tham gia quá trình đó. Từ sau khi Liên Xô tan rã, Chủ nghĩa xã hội bị xóa bỏ ở các nước Đông Âu, tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế, các nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới từ sản xuất tới vốn, công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin và giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức kinh tế. Từ đó, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị "các luật chơi" có lợi cho chúng. Tính chất đế quốc của qúa trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hiện nay và ngày càng thể hiện rõ. Trong văn kiện đại hội IX - Đảng ta đã nhấn mạnh: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác vừa đấu tranh… 2.1.2 Tính hai mặt của quá trình toàn cầu hóa kinh tế Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa kinh tế được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa kinh tế có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Toàn cầu hóa kinh tế đang ngày càng lôi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị - xã hội khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong nhiều năm tới toàn cầu hóa kinh tế chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa kinh tế chưa phải là môi trường tốt đẹp mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau và không ai phải trả giá. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế diễn ra không trôi chảy, dễ dàng mà phải thông qua quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước: Các nước phát triển và các nước đang phát triển, trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa và liên kết khu vực, giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch… - Những tác động tích cực của toàn cầu hóa kinh tế: + Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế thế giới. Trong đó cơ cấu kinh tế thế giới có bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển nhờ tham gia toàn cầu hóa kinh tế họ có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý… Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước. + Toàn cầu hóa kinh tế thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng hai lần, đến cuối thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ. + Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, những thành tựu của khoa học - công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học - công nghệ để phát triển. + Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư (tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm 1997 gấp 800 lần năm 1914). + Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển được trong nền kinh tế thị trường thế giới. + Toàn cầu hóa làm cho mạng lưới thông tin vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng... + Toàn cầu hóa kinh tế mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi người có điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. + Về mặt chính trị, quá trình toàn cầu hóa kinh tế làm gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Tóm lại, dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế, thế giới ngày nay trở thành một thế giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con người ngày càng có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện. Cùng với toàn cầu hóa là xu thế khu vực hóa. Xu thế khu vực hóa phản ánh sự khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa dạng, trong đó sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên như cuộc đấu tranh lợi ích, quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và quyết liệt. - Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế: Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện đang còn chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế gíới, thao túng quá trình toàn cầu hóa kinh tế, lợi dụng quá trình toàn cầu hóa kinh tế để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình toàn cầu hóa kinh tế: + Toàn cầu hóa kinh tế thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp và phát triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường…). Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là chuyến giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước này. + Toàn cầu hóa kinh tế là tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc vào chính trị, gây nguy hại đến chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác, kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước khác, thực hiện "diễn biến hòa bình" thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân phương Tây. Đối với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản… + Thông qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế quốc tìm cách gây sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,… dùng mọi hình thức để can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó. + Toàn cầu hóa kinh tế làm trầm trọng thêm những bất công trong xã hội, làm sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế là những nước có nền kinh tế thị trường phát triển (Mỹ, EU, Nhật,…), những nước chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế là những nước có nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ. + Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), toàn thế giới vẫn còn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công nghiệp phát triển, với khoảng 1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu, trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1% GDP toàn cầu. + Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các nước giàu chỉ gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997 sự chênh lệch này đã tăng 288 lần. + Theo tổng kết UNDP, từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hóa đến nay, trên thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước nghèo đi, trong đó 60 nước GDP bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia toàn cầu hóa. Tổng số nợ của các nước kém phát triển lên tới gần 2.000 tỷ USD. Trong đó, 250 tỷ thuộc 41 quốc gia kém phát triển nhất. Trong số những nước vay nợ để phát triển, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ. Số còn lại biến thành con nợ lưu cữu. Nợ nước ngoài quá lớn của nhiều nước hiện nay như tảng đá đeo lên cổ họ đã kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế ở những nước này. + Toàn cầu hóa kinh tế có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính toàn cầu. + Do tác động của toàn cầu hóa kinh tế các dòng hàng hóa, vốn, công nghệ,… dễ lưu thông trên bình diện thế giới. Song cũng chính vì vậy mà sự đổ vỡ và "khủng hoảng" ở một khâu hoặc một nước nào đó theo hiệu ứng lan truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu vực thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu Á năm 1997 là một ví dụ. + Toàn cầu hóa kinh tế có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển lợi dụng việc trả lương cao, các thiết bị khoa học công nghệ tốt, môi trường làm việc thuận lợi để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy, nguy cơ chảy máu chất xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát triển trong cơn lốc của toàn cầu hóa kinh tế. 2.1.3 Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế Cơ hội: Với sự kiện chính thức gia nhập WTO, nước ta thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới trên một bình diện rộng lớn. Hội nhập kinh tế tạo ra nhưng cơ hội mới cho nước ta đó là: - Thứ nhất, mở ra cơ hội cho Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ với các nước trên thế giới. - Thứ hai: Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. - Thứ ba: Cơ hội để Việt Nam không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện CNH-HĐH đất nước, đảm bảo tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. - Thứ tư: hội nhập kinh tế tạo cơ hội để Việt Nam thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, đảm bảo cho tiến trình cải cách đồng bộ hơn, hiệu quả hơn. - Thứ năm: việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện để triển khai có hiệu quả đường lối ngoại giao theo phương châm: “Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình hợp tác và phát triển”. Thách thức: Hội nhập có tác động bất lợi đối với các nước nhất là các nước đang phát triển. - Trước hết, Doanh nghiệp các nước phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, những doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu có thể bị phá sản, làm gia tăng tình trạng thất nghiệp. Tự do hoá thương mại tạo cơ hội khác nhau với các tầng lớp xã hội, do đó làm phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong thu nhập. - Thứ hai: hội nhập buộc các nước phải cải cách hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc chung quốc tế. Tuy nhiên, nếu quá trình cải cách không có sự đồng thuận xã hội, không có lộ trình hợp lí sẽ gây nên những biến động kinh tế, xã hội và chính trị. - Thứ ba: Các nước phát triển có xu hướ
Luận văn liên quan