Đề tài Phân tích nguyên tắc tập trung- Dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Nguyên tắc tập trung – dân chủ cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng được dùng để áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do vậy em xin chọn đề tài “Phân tích nguyên tắc tập trung- dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” để đi sâu tìm hiểu.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3033 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nguyên tắc tập trung- Dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục: A. Phần mở đầu 1 B. Phần nội dung: 1 1.Khái niệm nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước: 1 2. Nguyên tắc tập trung – dân chủ: 1 2.1.Cơ sở pháp lý: 2 2.2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước 2 3. Thực trạng việc vận dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay: 5 3.1. Về mặt tích cực: 5 3.2. Về mặt hạn chế 5 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ vào hoạt động quản lý hành chính ở nướ ta: 8 4. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay: 9 C. Phần kết luận 10 PHẦN MỞ ĐẦU Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Nguyên tắc tập trung – dân chủ cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng được dùng để áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do vậy em xin chọn đề tài “Phân tích nguyên tắc tập trung- dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” để đi sâu tìm hiểu. PHẦN NỘI DUNG 1. Khái niệm nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước. Trước hết ta phải hiểu nguyên tắc là gì?. Nguyên tắc trước hết được hiểu là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm (1). Trong quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là tổng thể những quy phạm pháp luật hành chính có nội dung đề cập tới những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước nói riêng đã được quy định trong pháp luật như quy định trong hiến pháp, luật, văn bản dưới luật. Tuy nhiên, những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp được xem là nguyên tắc cơ bản nhất. Hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bao gồm nhóm nguyên tắc chính trị xã hội và nhóm nguyên tắc tổ chức kĩ thuật. Nguyên tắc chính trị xã hội là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh về phương diện định hướng có tính chất chính trị, tạo tiền đề cho việc ban hành, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý nhà nước. Hệ thống các nguyên tắc này gắn bó chặt chẽ với bản chất nhà nước, bản chất chế độ và tồn tại ổn định lâu dài trong một nhà nước. Nguyên tắc tập trung – dân chủ sau đây chúng ta đi tìm hiểu thuộc nhóm nguyên tắc chính trị xã hội. 2. Nguyên tắc tập trung – dân chủ. (1): xem Viện ngôn ngữ học, từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học-xã hội-Trung tâm từ điển học, H.1994, tr.672 2.1. Cơ sở pháp lí. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này. Điều 6 - Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạp tập trung. 2.2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là một yêu cầu khách quan đối với công tác quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở những điểm sau: - Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Hiến pháp của nhà nước ta đã xác định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Điều 6, Hiến pháp 1992 đã quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống của xã hội, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương được thành lập. Trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.     Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương, các Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như Bộ, cơ quan ngang Bộ …) đều do các cơ quan quyền lực nhà nước ở cùng cấp trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trong hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời, đó chính việc đảm bảo cho sự tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Dân chủ được thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho cơ quan hành chính Nhà nước trong quá trình cơ quan này chỉ đạo thực hiện pháp luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực. Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực – cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân. - Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương. Trước hết cần khẳng định sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và địa phương. Nếu thiếu nó sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, làm nảy sinh tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Trên cơ sở qui định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của mình và căn cứ vào đặc điểm, tình hình, lợi ích hợp lý của địa phương (hoặc cấp dưới), các cơ quan nhà nước trung ương (hoặc cấp trên) có quyền quyết định đối với địa phương (hoặc cấp dưới). Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên đây không phải là sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Các cơ quan nhà nước địa phương (hoặc cấp dưới) có quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước trung ương (hoặc cấp trên) hoặc những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, phù hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương hoặc đơn vị mình, nhưng không được trái với các qui định của trung ương (hoặc cấp trên). Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải phân định những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể, những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể thì thiểu số phục tùng đa số nhưng thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến, đa số cũng cần xem xét, tham khảo ý kiến của thiểu số để kiểm tra tính đúng đắn trong quyết định của mình. Những vấn đề cá nhân có quyền quyết định thì cá nhân phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. - Sự phân cấp quản lý. Phân cấp quản lý là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình. Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau: + Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc. + Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. + Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới đồng thời tránh cho cơ quan nhà nước ở trung ương phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ, thuộc về chức trách của các đơn vị ở địa phương cơ sở.. + Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới. Phân cấp quản lý giữa các cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xã hội, trình độ phát triển đồng đều về kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin, liên lạc, các yếu tố về dân tộc, trình độ dân trí, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý ở địa phương và cơ sở…Do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí cần phải có sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng, hợp lí, tránh đưa ra những quyết định mang tính chung chung, tùy tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lý bao giờ cũng phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền. - Hướng về cơ sở. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động. Do vậy trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội hoàn thành tốt công việc của mình. Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất tinh thần. Các đơn vị văn hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà nước quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động hiệu quả. Song song với những việc làm nêu trên, Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng của Nhà nước. - Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định cụ thể. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp trước hết có sự phụ thuộc vào Hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời, chúng còn có sự phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Ví dụ: Ủy ban nhân dân Tỉnh Cần Thơ một mặt chịu sự chỉ đạo của Hội đồng nhân dân Tỉnh Cần Thơ theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc. Cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương (sở, phòng, ban) phụ thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp (Uỷ ban nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên ở cấp trực tiếp - quan hệ dọc. Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh Phú Thọ, một mặt phụ thuộc vào Ủy ban nhân dân Tỉnh Phú Thọ, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp. Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ. 3. Thực trạng việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. 3.1. Về mặt tích cực. - Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Về cơ bản, các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá, thông qua gần 100 văn bản luật, pháp lệnh ban hành 5 năm qua đã tạo dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho các thành phần kinh tế, cho người dân làm ăn và sinh sống. Các chính sách về giá, về thuế, áp dụng chế độ hợp đồng lao động, cải cách chế độ tiền lương... có tác dụng to lớn đối với việc khai thác mọi tiềm năng sản xuất, giải quyết mọi việc làm cho người lao động và từng bước cải thiện mức sống dân cư. Cùng với các thể chế kinh tế, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ hoá đời sống xã hội đã có bước tiến dài, góp phần quan trọng vào ổn định xã hội, khai thác và phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội. - Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước  được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở luật tổ chức Chính phủ được Quốc hội thông qua, Chính Phủ đã xác định rõ thêm vị trí, chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của mình với tư cách là cơ quan hành pháp, là cơ quan hành chính cao nhất của tổ chức hệ thống quyền lực Nhà nước. Tổ chức hoạt động điều hành của Chính phủ đã đổi mới từng bước, tập trung vào việc quản lý vĩ mô trong phạm vi cả nước, trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện chức năng đích thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đã thực hiện điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước giữa các cấp hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Chính quyền địa phương được phân cấp nhiều hơn, nhất là trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đầu tư, đất đai, y tế, giáo dục v.v… Trên cơ sở điều chỉnh lại phạm vi, đối tượng quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, phân biệt và tách chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và chính quyền địa phương với quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp. - Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và Uỷ ban nhân dân các cấp có bước đổi mới: Tinh thần xuyên suốt quá trình đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Các cơ quan nhà nước tập trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật. Những nỗ lực cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, áp dụng phương  thức quản lý theo cơ chế “một cửa” cả ở ba cấp chính quyền địa phương (kết quả ở cấp tỉnh 100%, cấp huyện 98%, cấp xã 92% tính tới tháng 5/2007), từ năm 2007 tiếp tục thí điểm tổ chức “một cửa” ở 8 bộ, ngành trung ương, nhằm tạo ra sự thống nhất trong hệ thống hành chính. Việc triển khai quy chế công khai tài chính, quy chế dân chủ ở cơ sở và trong cơ quan hành chính nhà nước v.v… đã có tác dụng tích cực góp phần đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với dân, quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với nhau trong quá trình tổ chức thực hiện công việc và thực thi công vụ. 3.2. Về mặt hạn chế. - Hệ thống thể chế pháp luật chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, thiếu nhất quán và nhất là việc thi hành pháp luật chưa nghiêm. Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ một số luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn triển khai chậm, chưa được ban hành. Sự thiếu nhất quán trong hệ thống thể chế biểu hiện rõ trong việc chậm chuẩn bị và ban hành các văn bản dưới luật, pháp lệnh để hướng dẫn thi hành. Đáng lo ngại là có sự vi phạm pháp luật kỉ cương, thậm chí nghiêm trọng ngay trong các cơ quan hành chính nhà nước. Sự tùy tiện ban hành những quyết định vượt quá thẩm quyền và trái với tinh thần của pháp luật Nhà nước ở địa phương, các ngành, các cấp là không ít. Từ đó dẫn đến tình trạng, trong nhân dân, trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, tính dân chủ bị hạn chế. Nhiều quyền của công dân được pháp luật khẳng định nhưng không được tôn trọng. Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và người dân, chủ yếu vẫn theo cơ chế “xin – cho”. Cơ chế một cửa tuy được triển khai rất rộng rãi nhưng nhiều nơi, nhiều chỗ còn mang tình hình thức. - Phân định trách nhiệm và quyền hạn, quan hệ phân công và phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước có những trường hợp chưa thật rõ ràng. Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, nhất là ở cấp Chính phủ và các bộ. Chính phủ làm gì và làm đến đâu trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tương tự như vậy là các bộ và chín
Luận văn liên quan