Đề tài Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại cục thuế tỉnh Trà Vinh

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, con đường đổi mới đã và đang phát huy hiệu quả, nền kinh tế đất nước ngày một phát triển đi lên. Một trong những nguyên nhân góp phần quan trọng vào thắng lợi đó là việc sử dụng công cụ chính sách thuế của Nhà nước. Thuế là một trong những nguồn thu rất quan trọng, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu ngân sách Nhà nước (khoảng 70% - 80%). Ngày nay với xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề bức thiết mang tính khách quan đối với tất cả các quốc gia. Vì vậy vai trò của thuế ngày nay không chỉ dừng ở chổ đảm bảo nguồn thu cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước , mà nó còn phải đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế quốc gia ngày một phát triển. Do đó hệ thống chính sách thuế nước ta luôn được cải cách sửa đổi sao cho phù hợp với nền kinh tế và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là việc ban hành luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu, đã khắc phục được nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu như: thu thuế trùng lắp, thuế thu trùng lên thuế, và được hoàn thuế GTGT trong trường hợp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ., góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư và xuất khẩu, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh với hiệu quả ngày càng cao. Sau hơn 6 năm thực hiện luật thuế GTGT đã thật sự đi vào cuộc sống phát huy tác dụng tích cực trên các mặt đời sống kinh tế - xã hội, việc thực hiện Luật thuế GTGT cơ bản đã hiệu quả và đổi mới hơn, tuy nhiên trong thực tế của quá trình quản lý thu thuế vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần trao đổi và tháo gỡ. Với những ý nghĩa có tính chất khoa học và thực tiển trên đây nên em chọn đề tài “Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh ” hy vọng thông qua việc nghiên cứu và phân tích nội dung luận văn này là điều kiện để em tích kiến thức và có thể sử dụng trong công tác sau này khi cần thiết. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Ôn lại những kiến thức đã học, tìm hiểu thêm về hệ thống các văn bản pháp luật về thuế Phân tích những thực trạng, những thuận lợi và khó khăn mà Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh đã gặp phải trong quá trình quản lý thu thuế GTGT như: Phân tích về công tác quản lý đối tượng nộp thuế Phân tích về công tác kiểm tra tờ khai thuế GTGT Phân tích về tình hình thu thuế GTGT ở các thành phần kinh tế Phân tích về tình hình thu thuế qua ba năm Phân tích về tình hình thanh kiểm tra thuế GTGT và công tác tuyên truyền hổ trợ đối tượng nộp thuế Tìm ra những nguyên nhân và những tồn tại trong quản lý thu thuế GTGT Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thu thập số liệu sơ cấp: Hỏi và tham khảo trực tiếp ý kiến của các Cô, Chú, Bác ngành Thuế Thu thập số liệu thứ cấp: Bảng báo cáo kết quả thu thuế cuối mỗi năm Bảng báo cáo tổng hợp thu nội địa Bảng danh sách các đối tượng nộp thuế đang hoạt động. Thông tin trên: sách, báo, tạp chí, internet Phương pháp xử lý thông tin: Thống kê, so sánh, phân tích, đánh giá Phương pháp đồ thị và biểu đồ: Bằng hình ảnh, tính chất của đồ thị để phân tích mối quan hệ, mức độ biến động của các chỉ tiêu cần phân tích. 4. GIỚI HẠN VỀ NỘI DUNG ĐỀ TÀI: Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh quản lý thu nhiều loại thuế đối với nhiều đối tượng nộp thuế đóng trên địa bàn Tỉnh. Thuế GTGT là loại thuế phổ biến được áp dụng đối với đa số doanh nghiệp, nên đề tài chỉ tập trung đi sâu vào phân tích tình hình quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và hộ cá thể có nộp thuế GTGT tại địa bàn tỉnh do Cục Thuế tỉnh Trà Vinh quản lý trong 3 năm 2003 – 2005.

doc75 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3519 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại cục thuế tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, con đường đổi mới đã và đang phát huy hiệu quả, nền kinh tế đất nước ngày một phát triển đi lên. Một trong những nguyên nhân góp phần quan trọng vào thắng lợi đó là việc sử dụng công cụ chính sách thuế của Nhà nước. Thuế là một trong những nguồn thu rất quan trọng, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu ngân sách Nhà nước (khoảng 70% - 80%). Ngày nay với xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề bức thiết mang tính khách quan đối với tất cả các quốc gia. Vì vậy vai trò của thuế ngày nay không chỉ dừng ở chổ đảm bảo nguồn thu cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước , mà nó còn phải đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế quốc gia ngày một phát triển. Do đó hệ thống chính sách thuế nước ta luôn được cải cách sửa đổi sao cho phù hợp với nền kinh tế và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là việc ban hành luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu, đã khắc phục được nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu như: thu thuế trùng lắp, thuế thu trùng lên thuế, và được hoàn thuế GTGT trong trường hợp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ….., góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư và xuất khẩu, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh với hiệu quả ngày càng cao. Sau hơn 6 năm thực hiện luật thuế GTGT đã thật sự đi vào cuộc sống phát huy tác dụng tích cực trên các mặt đời sống kinh tế - xã hội, việc thực hiện Luật thuế GTGT cơ bản đã hiệu quả và đổi mới hơn, tuy nhiên trong thực tế của quá trình quản lý thu thuế vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần trao đổi và tháo gỡ. Với những ý nghĩa có tính chất khoa học và thực tiển trên đây nên em chọn đề tài “Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh ” hy vọng thông qua việc nghiên cứu và phân tích nội dung luận văn này là điều kiện để em tích kiến thức và có thể sử dụng trong công tác sau này khi cần thiết. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Ôn lại những kiến thức đã học, tìm hiểu thêm về hệ thống các văn bản pháp luật về thuế Phân tích những thực trạng, những thuận lợi và khó khăn mà Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh đã gặp phải trong quá trình quản lý thu thuế GTGT như: Phân tích về công tác quản lý đối tượng nộp thuế Phân tích về công tác kiểm tra tờ khai thuế GTGT Phân tích về tình hình thu thuế GTGT ở các thành phần kinh tế Phân tích về tình hình thu thuế qua ba năm Phân tích về tình hình thanh kiểm tra thuế GTGT và công tác tuyên truyền hổ trợ đối tượng nộp thuế Tìm ra những nguyên nhân và những tồn tại trong quản lý thu thuế GTGT Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Thu thập số liệu sơ cấp: Hỏi và tham khảo trực tiếp ý kiến của các Cô, Chú, Bác ngành Thuế Thu thập số liệu thứ cấp: Bảng báo cáo kết quả thu thuế cuối mỗi năm Bảng báo cáo tổng hợp thu nội địa Bảng danh sách các đối tượng nộp thuế đang hoạt động. Thông tin trên: sách, báo, tạp chí, internet… Phương pháp xử lý thông tin: Thống kê, so sánh, phân tích, đánh giá Phương pháp đồ thị và biểu đồ: Bằng hình ảnh, tính chất của đồ thị để phân tích mối quan hệ, mức độ biến động của các chỉ tiêu cần phân tích. 4. GIỚI HẠN VỀ NỘI DUNG ĐỀ TÀI: Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh quản lý thu nhiều loại thuế đối với nhiều đối tượng nộp thuế đóng trên địa bàn Tỉnh. Thuế GTGT là loại thuế phổ biến được áp dụng đối với đa số doanh nghiệp, nên đề tài chỉ tập trung đi sâu vào phân tích tình hình quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và hộ cá thể có nộp thuế GTGT tại địa bàn tỉnh do Cục Thuế tỉnh Trà Vinh quản lý trong 3 năm 2003 – 2005. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN I. TỔNG QUAN VỀ THUẾ: 1.Vài nét về lịch sử ra đời của thuế: Dưới chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, con người sống chung, ăn chung, làm chung với nhau, không có ai cai trị ai, cho nên mọi thành viên trong xã hội lúc bấy giờ không có trách nhiệm đóng góp cho ai cái gì cả, ở thời điểm này thuế chưa xuất hiện. Cùng với sự phát triển của xã hội, giai cấp hình thành và Nhà nước ra đời. Nhà nước ra đời, kèm theo nó là bộ máy quản lý để thực hiện quyền lực của mình. Bộ máy quản lý này không tự tạo ra nguồn vật chất để tự nuôi sống mình mà nó chỉ dựa vào sự đóng góp của toàn thể dân chúng phải nộp một phần tài sản của mình cho Nhà nước như là nghĩa vụ, đó chính là thuế. Như vậy đến đây, chúng ta có thể khẳng định rằng tiền đề cho sự ra đời của thuế chính là sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, bản chất của Nhà nước quyết định bản chất của thuế. Trải qua các chế độ xã hội khác nhau, Nhà nước bằng quyền lực của mình đã quy định các khoản đóng góp bắt buộc đối với dân chúng và các chủ thể khác trong xã hội. Các khoản đóng góp đó được thực hiện bằng nhiều hình thức như: ngày công lao động, hiện vật, bằng tiền…..Do đó có thể nói thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước nào cũng sử dụng để thực hiện chức năng của mình, thuế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. 2. Khái niệm về thuế: Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thuế: Theo Philip E.Taylor: Thuế là sự đóng góp cưỡng bách của mỗi người cho Chính Phủ để trang trải các khoản chi phí và quyền lợi chung, mà ít căn cứ vào các lợi ích riêng được hưởng. Theo tính chất kinh tế: Thuế là một hình thức phân phối sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân sáng tạo ra, hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Theo tính chất pháp lý: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân được Nhà nước quy định thông qua hệ thống pháp luật, nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước. *Các quan điểm trên tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất chung nội dung chính của thuế là: Thuế là một biện pháp động viện của Nhà nước mang tính chất bắt buộc đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước. Thuế là một khoản đóng góp nghĩa vụ, bắt buộc của mọi tổ chức và thành viên trong xã hội phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Thuế là một bộ phận của cải từ khu vực tư chuyển vào khu vực công, nhằm trang trải chi phí nuôi bộ máy Nhà nước và trng trải chi phí công cộng mang lợi ích chung cho cộng đồng Từ những nhận thức trên, ta có thể khái niệm chung về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc được Nhà nước quy định thành luật để mọi tổ chức kinh tế và người dân phải nộp cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước . Phân loại thuế: 3.1. Phân loại theo tính chất: gồm có 2 loại Thuế trực thu: là loại thuế trực tiếp thu vào thu nhập của người chịu thuế, hay nói cách khác người nộp thuế và người chịu thuế là một, người nộp thuế không thể chuyển cho người khác được (Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà đất). Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập nên đảm bảo được công bằng xã hội: người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, người có thu nhập vừa thì nộp thuế ít, người có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập thì không phải nộp thuế. Tuy nhiên thuế trực thu cũng có những bất lợi của nó khi áp dụng là: việc tính toán phức tạp, phải xác định rõ thu nhập chịu thuế thì mới được tính thuế và mới thu được thuế nên thường rất chậm, đôi khi phải đến kỳ quyết toán mới thu được đủ thuế, thu thiếu thì phải thu thêm, thu thừa thì phải thoái trả. Đây là loại thuế đánh trực tiếp vào tổ chức, cá nhân nên về tâm lý dễ bị phản ứng, dẫn đến tình trạng trốn thuế. Thuế gián thu: là loại thuế gián tiếp thu vào người tiêu dùng thông qua hoạt động của cá tổ chức sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là người nộp thuế không phải là người chịu thuế ( Thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu). Ưu điểm của loại thuế này là không tạo ra cảm giác chịu thuế cho người chịu thuế và khắc phục được nhược điểm của thuế trực thu. Nhược điểm của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một sản phẩm hàng hóa và số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nên có hiện tượng người có thu nhập cao thì tỷ lệ nộp thuế trên thu nhập thấp, nghĩa là gánh nặng của người có thu nhập cao ít hơn người có thu nhập thấp. 3.2.Phân loại theo đối tượng tính thuế có các loại: Thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ (Thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu) Thuế đánh vào thu nhập (Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân) Thuế đánh vào tài sản, gồm động sản và bất động sản (Thuế nhà, đất) Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữư công cộng (Thuế tài nguyên) II. VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI: 1.Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước : Theo khảo sát của World Bank tại 85 nước trên thế giới, có tới 60 quốc gia mà khoản thu từ thuế chiếm 60% tổng thu ngân sách Nhà nước. Điều này được lý giải bởi những lý do sau đây: Thuế là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh của Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Là khoản thu mang tính chất ổn định tương đối. Hình thức thu bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập và mọi tiêu dùng xã hội. Đảm bảo được tính tự chủ trong cân đối ngân sách. Thể hiện một nền tài chính quốc gia lành mạnh. 2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu tư và phát triển hay suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào từng tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều tiết nền kinh tế bằng thuế. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn cực thịnh Nhà nước có thể tăng thuế để tăng nguồn thu cho ngân sách. Trong giai đoạn này việc tăng thuế thường không gây ra phản ứng ở người nộp thuế bởi vì ở giai đoạn này thu nhập của người dân rất cao và ổn định nên việc tăng thuế sẽ không ảnh hưởng đến đến đời sống của họ. Số bội thu ngân sách sẽ được lập thành quỹ dự trữ để đề phòng khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái. Việc tăng thuế trong giai đoạn này sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự tăng trưởng của nền kinh tế. Ngược lại khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái, việc giảm thuế sẽ có tác dụng nâng cao tổng cầu, từ đó mà xúc tiến việc phục hưng nền kinh tế. Thuế có tác dụng trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư. Khi ban hành một sắc thuế do những yêu cầu về mặt kinh tế, chính trị xã hội Nhà nước đã có những qui định về đối tượng, phạm vi đóng thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm. Các qui định này xét về bề ngoài là một sự cưỡng chế, nhưng bên trong là nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội nhất định. 3. Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối: Trong nền kinh tế hàng hóa nói chung, đặc biệt là nền kinh tế thị trường nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để thị trường tự điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung, tạo ra hai cực đối lập nhau, một thiểu số người giàu sẽ giàu lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống sẽ không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng mà còn tạo nên sự đối lập giai cấp làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nổ lực cộng đồng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế nếu không chia sẽ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng mất đi sự công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế. Vai trò là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội của thuế thể hiện ràng trong thuế trực thu. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào những người có thu nhập cao. Như vậy ngoài việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn đóng vai trò quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội. Vai trò này còn thể hiện rõ rệt khi sử dụng thuế suất lũy tiến. Việc điều hòa thu nhập xã hội còn được thể hiện một phần thong qua các sắc thuế gián thu như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,…. Các loại thuế này thường đánh rất cao vào những mặt hàng, dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết thu nhập của cá nhân có thu nhập tương đối cao so với mức bình quân của xã hội. III. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ: Hệ thống thuế là toàn bộ các sắc thuế và các khoản thu mang tính chất thuế trong từng thời kỳ của một quốc gia. Hệ thống thuế được coi là có hiệu quả kinh tế - xã hội khi các chính sách trong hệ thống thuế đáp ứng các yêu cầu huy động nguồn lực tài chính tập trung vào ngân sách Nhà nước một cách ổn định, thường xuyên để trang trải các chi phí của bộ máy Nhà nước, các chi phí công cộng đem lại lợi ích cộng đồng. Bên cạnh đó hệ thống thuế phải kích thích được kinh tế - xã hội phát triển, tạo sự công bằng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Để thực hiện tốt vai trò của thuế, Nhà nước phải ban hành một hệ thống thuế bao quát hết mọi nguồn thu có thể khai thác động viên cho ngân sách Nhà nước từ mọi nguồn thu nhập, mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, tiêu dùng…. Mỗi sắc thuế chỉ đảm nhận một số chức năng, mục đích nhất định, đồng thời hổ trợ bổ sung lẫn nhau để phát huy tác dụng toàn diện hệ thống thuế giúp cho việc thu thuế hiệu quả hơn. Hệ thống chính sách thuế hiện hành ở nước ta bao gồm: Thuế giá trị gia tăng: là loại thuế gián thu, nó là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Theo điều 1 của luật thuế GTGT thì thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, căn cứ để tính thuế GTGT là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ thuộc diện đối tượng tính thuế, nó có ưu điểm là đánh thuế không trùng lắp, kích thích xuất khẩu… Thuế tiêu thụ đặc biệt: Là lọai thuế gián thu, đánh vào giá trị của một số hàng hóa sản xuất và lưu thông trong nước hoặc nhập khẩu. Thuế này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sản xuất hoặc tiêu dùng, những hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là những hàng hóa không được khuyến khích sản xuất hoặc tiêu dùng (ví dụ: thuốc lá, rượu, bia…) Thuế thu nhập doanh nghiệp: Là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của tất cả các tổ chức và cá nhân kinh doanh, thuế thu nhập doanh nghiệp làm giảm lợi nhuận của đối tượng chịu thuế, nó có vai trò điều tiết thu nhập, định hướng phát triển sản xuất kinh doanh trong từng ngành nghề góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thuế xuất nhập khẩu: là loại thuế gián thu, đối tượng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt nam. Nó đóng vai trò quan trọng trong chính sách mở của nước ta đối với bên ngoài, đồng thời còn là vũ khí để bảo vệ kinh tế trong nước và là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân: là loại thuế trực thu, trực tiếp đánh vào thu nhập của từng cá nhân, bao gồm: tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập khác Ngoài ra còn có một số sắc thuế khác như: Thuế sử dụng đất nông nghiệp Thuế chuyển quyền sử dụng đất Thuế nhà, đất Thuế tài nguyên Thuế môn bài Chế độ thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước (nghị định) Ngoài các sắc thuế trên, hệ thống thu ngân sách ở nước ta còn có các loại phí và lệ phí. IV. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THUẾ GTGT ĐANG CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH: 1. Đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế GTGT là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh và tất cả các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT. 2. Đối tượng chịu thuế: Đối tượng chịu thuế GTGT là các hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng quy định tại điều 4 của luật thuế GTGT có 29 nhóm mặt hàng không chịu thuế GTGT. 3. Căn cứ tính thuế: Theo quy định tại điều 6 luật thuế GTGT thì căn cứ tính thuế GTGT là dựa vào giá tính thuế và thuế suất. 3.1. Giá tính thuế: Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) thuế nhập khẩu (nếu có) + thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ là giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ cùng loại hoặc tương tự tại thời điểm phát sinh các hoạt động này. Đối với hoạt động cho thuê tài sản, giá tính thuế là số tiền cho thuê từng kỳ. Giá cho thuê tài sản do các bên thỏa thuận theo hợp đồng hoặc do Nhà nước qui định. Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế là giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT. Hàng hóa dịch vụ mang tính đặc thù (tem bưu chính, vé cước vận tải, vé số kiến thiết…) là giá thanh toán đã có thuế GTGT, giá tính thuế được xác định như sau: Giá thanh toán Giá chưa có thuế GTGT = 1 + Thuế suất thuế GTGT 3.2. Thuế suất: Thuế suất là một nội dung quan trọng nhất cần được xem xét khi đề cập đến Thuế GTGT . Nếu như thuế doanh thu, do đặc điểm thu qua mỗi lần lưu chuyển sản phẩm, hàng hoá nên người ta định thuế suất thấp, còn đối với thuế GTGT do thu vào giá trị tiêu dùng cuối cùng, để đảm bảo nguồn thu cho NSNN, thuế suất GTGT phải cao hơn thuế doanh thu. Đây là một thực tế ở một số nước, khi bắt đầu chuyển đổi từ thuế doanh thu sang thuế GTGT đều bị phản ứng tại sao thuế suất cao như vậy. Nếu không có sự giải thích, tuyên truyền kỹ lưỡng thì khó có sự đồng tình, ủng hộ một cách dễ dàng. Thuế suất thuế GTGT là bước tiến bộ và cải tiến nhiều hơn so với thuế doanh thu. Theo qui định tại điều 8 luật thuế GTGT thì trước năm 2003 có 4 mức thuế suất là: 0%, 5%, 10%, 20%. Với mức thuế suất nhiều như thế làm cho việc tính thuế, thu và nộp thuế trở nên phức tạp, đồng thời còn làm cho các doanh nghiệp phải hao tốn thêm nhiều thời gian, công sức trong việc hoạch định chiến lược sản xuất, chiến lược mặt hàng. Mặc khác việc áp dụng nhiều mức thuế suất làm cho hiện tượng phân phối thuế phải thu trong từng công đoạn không đều nhau, có khâu phải thu nhiều của người tiêu dùng, có khâu thu ít, có khâu lại không thu, đồng thời việc hoàn thuế và truy thu cũng tăng lên một cách không đáng có. Với những vấn đề cấp thiết như thế, tại kỳ họp thứ 3, Quốc Hội khóa IX (từ ngày 03 tháng 5 đến ngày 17 tháng 6 năm 2003), Quốc Hội đã ban hành Luật sủa đổi bổ sung một số điều của luật thuế GTGT. Nội dung sửa đổi chủ yếu thu gọn lại số lượng mức thuế suất, và quy định thống nhất thuế GTGT chỉ còn 3 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, đươc áp dụng từ ngày 01/01/2004. Ở mỗi mức thuế suất được quy định cụ thể như sau: - Mức thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu kể cả hàng hóa gia công xuất khẩu nhằm kuyến khích xuất khẩu. Đối tượng áp dụng thuế suất 0% không phải nộp thuế GTGT đầu ra nhưng được khấu trừ và hoàn lại thuế GTGT đã nộp trên hàng hóa đầu vào. Khác với đối tượng hưởng thuế suất 0%, những đối tượng được miễn thuế GTGT không phải nộp thuế GTGT đầu ra và cũng không được khấu trừ và hoàn lại thuế GTGT đầu vào. Như vậy các cơ sở kinh doanh hàng hóa dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT sẽ đưa toàn bộ thuế GTGT đầu vào vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. - Mức thuế suất 5%: đuợc áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng như: nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt, thiết bị và dịch vụ y tế, phân bón, thuốc trừ sâu........ - Mức thuế suất 10%: là mức thuế suất phổ thông áp dung hầu hết đối với các sản phẩm và dịch vụ khác thuộc diện chịu thuế GTGT mà không quy định ở mức thuế suất 0% và 5%. 4. Phương pháp tính thuế