Đề tài Phân tích về quyền và nghĩa vụ của nguời bào chữa và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa

Chế định người bào chữa cùng với vai trò mang ý nghĩa lớn của mình đã sớm được quan tâm tại Việt Nam. Thể hiện qua những bộ Luật tố tụng hình sự từ trước đến nay, đặc biệt và rõ nét là qua BLTTHS 2003 với giá trị pháp lý đang tồn tại. Qua đó ta thấy một quá trình hoàn thiện dần về lý luận và thực tiễn của Luật tố tụng nói chung và chế định người bào chữa nói riêng. Bên cạnh đó còn một số điểm hạn chế nhất định cần phải đưa ra hướng giải quyết về chế định người bào chữa để phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội hiện nay, đặc biệt là trong việc bảo vệ pháp chế XHCN. Bài viết dưới đây sẽ phân tích về quyền và nghĩa vụ của nguời bào chữa và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích về quyền và nghĩa vụ của nguời bào chữa và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục I. LỜI MỞ ĐẦU. Chế định người bào chữa cùng với vai trò mang ý nghĩa lớn của mình đã sớm được quan tâm tại Việt Nam. Thể hiện qua những bộ Luật tố tụng hình sự từ trước đến nay, đặc biệt và rõ nét là qua BLTTHS 2003 với giá trị pháp lý đang tồn tại. Qua đó ta thấy một quá trình hoàn thiện dần về lý luận và thực tiễn của Luật tố tụng nói chung và chế định người bào chữa nói riêng. Bên cạnh đó còn một số điểm hạn chế nhất định cần phải đưa ra hướng giải quyết về chế định người bào chữa để phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội hiện nay, đặc biệt là trong việc bảo vệ pháp chế XHCN. Bài viết dưới đây sẽ phân tích về quyền và nghĩa vụ của nguời bào chữa và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Khái niệm người bào chữa Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa là người tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Từ quy định đó, có thể hiểu: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng được các CQTHTT cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa, theo quy định của pháp luật, sử dụng các lý lẽ, chứng cứ để xác định NBTG, BC, BC vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS của NBTG, BC, BC và giúp đỡ NBTG, BCBC về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. 2. Phân loại Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. - Luật sư: là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. - Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. - Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa. Bên cạnh đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có quyền tự mình bào chữa theo Điều 48, 49 và 50 BLTTHS 2003 nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bản thân. 3. Trường hợp không được bào chữa Bên cạnh đó pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003, những người sau đây không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó. Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Người bào chữa tham gia tố tụng để gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người này. Người đã tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa. Người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ. - Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. 4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất tâm thần thì họ và đại diện hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thân thích hoặc người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hoặc nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoăc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS.Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trong các trường hợp này, phải thông báo ngay cho bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ biết, những người này vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa nhưng phải nêu rõ lý do. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai. 5. Thời điểm tham gia của người bào chữa Trước hết, Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can là phù hợp với điều kiện và tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta hiện nay. Sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; thực tế đã đặt ra nhu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Trong bối cảnh đó vấn đề thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa đã có thêm những thay đổi mới hoàn thiện hơn. BLTTHS 2003 đã quy định cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người thực hiện hành vi phạm tội bị tạm giữ sau khi bị bắt quả tang, bị bắt khẩn cấp, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc khi họ ra đầu thú hay tự thú trước cơ quan chức năng. Trong trường hợp một người bị bắt quả tang hay bắt khẩn cấp và sau đó họ bị áp dụng biện pháp tạm giữ cũng có nghĩa là người đó đang bị cơ quan chức năng buộc tội về hành vi mà họ bị tạm giữ. Hơn nữa khi một người bị bắt và bị tạm giữ thì họ đã bị hạn chế quyền tự do về thân thể nên lúc này họ rất cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý. Để người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi một người bị bắt giữ là hoàn toàn hợp lý. Đây là một quy định mới rất đúng đắn về mặt lý luận và phù hợp với điều kiện khách quan hiện nay. Trong những trường hợp khác người bào chữa được tham gia khi có quyết định khởi tố bị can như trước đây đã từng quy định. 6. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. 6.1. Quyền của người bào chữa. Người bào chữa có quyền: - Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ, điều đó có ý nghĩa lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. - Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm tiến hành hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. - Để nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. - Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. - Đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập them người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. - Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam: Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. - Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sỏ đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu của vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền. - Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của bộ luật này. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. 6.2. Nghĩa vụ của người bào chữa - Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của BLTTHS. - Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; - Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; - Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phâm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 7. Hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định người bào chữa. Với ý nghĩa cùng vai trò quan trọng của người bào chữa theo những phân tích ở trên ta thấy pháp luật nước ta cũng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, văn hóa khoa học và đặc biệt là với sự hòa nhập toàn cầu hóa đã quy định ngày một hoàn thiện hơn về địa vị pháp lý của người bào chữa. Tuy nhiên với sự phát triển không ngừng của xã hội, sự giao thoa của pháp luật quốc tế, việc học hỏi các hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới tất yếu sẽ nhìn nhận thấy những điểm, điều chưa hợp lý cần phải làm rõ và bổ sung của pháp luật tố tụng hình sự về chế định người bào chữa. Dưới đây là một số vấn đề cần quan tâm và cách thức hoàn thiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người bào chữa. Thứ nhất: Quy định về người bào chữa là bào chữa viên nhân dân theo Điều 58 BLTTHS 2003. Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ giống hay khác luật sư ở mức nào. Mặc dù có một số người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận, nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp. Thực tiễn xét xử những người này tham gia tố tụng rất hạn chế, hãn hữu mới có người được Tòa án chấp nhận tham gia. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì hoàn toàn vắng bóng họ, vì thực tế luật sư tham gia còn rất khó khăn. Do đó, thiết nghĩ nên hoàn thiện theo hai hướng sau đây. Một là có chăng nên bỏ chế định bào chữa viên nhân dân là người bào chữa trong TTHS, hai là Chính phủ nên ban hành Quy chế hoặc Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Đoàn Bào chữa viên nhân dân để chế định này có giá trị thực tiễn cao hơn. Thứ hai: Về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. Khi nói về thời điểm được tham gia tố tụng của người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 có quy định chỉ cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra trong những trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia. Câu hỏi được đặt ra là quy định như vậy có gây khó khăn và bất lợi cho người bào chữa trong việc bào vệ đương sự của mình hay không. Như chúng ta biết, những tội xâm phạm an ninh quốc gia thường là những tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, là những vụ án rất phức tạp nên nếu để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra thì khả năng bào chữa của họ sẽ bị hạn chế rất lớn, họ không có khả năng thu thập chứng cứ hoặc không thể thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh sự vô tội, để làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và điều này có thể dẫn tới khả năng giải quyết vụ án thiếu khách quan hay không công bằng. Mặt khác, nếu xét về lý luận thì khi hạn chế sự tham gia sớm của người bào chữa trong những vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, chúng ta đã không tuân thủ nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Còn nếu vì lý do sợ người bào chữa làm lộ bí mật điều tra, bí mật quốc gia mà không cho họ tham gia sớm hơn thì điều này lại chứng tỏ rằng chúng ta chưa tin tưởng vào khả năng xử lý trách nhiệm đối với người bào chữa khi họ vi phạm quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự của người bào chữa. Bên cạnh đó về mặt kỹ thuật lập pháp, nội dung của khoản 1 Điều 58 BLTTHS là không phù hợp với nội dung của Điều 58 bởi vì nội dung của khoản này quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa chứ không phải quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, vì vậy cần phải chuyển khoản 1 Điều 58 sang khoản 3 Điều 56 thì mới phù hợp. Thứ ba: Về sự lựa chọn và thay đổi người bào chữa Tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 quy định việc lựa chọn và thay đổi người bào chữa có điểm chưa hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ chưa chắc có thể nhận thức được hành vi từ chối người bào chữa và hậu quả pháp lý khi từ chối từ quyết định của mình. Vì vậy cần phải phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng này một cách rạch ròi hơn. Có nghĩa là nên cho đối tượng được quy định tại điểm a có quyền từ chối người bào chữa như quy định của pháp luật hiện hành còn nhóm đối tượng được quy định tại điểm b thì tuỳ từng trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng quyết định cho họ có quyền từ chối hay không được từ chối người bào chữa. Thứ tư: Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa Thực tế hiện nay có nhiều trường hợp bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, n