Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho sự phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá rồng” đã thực hiện, đó là: đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và khu vực tư nhân trong nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và nhất là khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế sẽ phát triển đáng kể, chống đỡ được những chấn động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được nhất là khi nền kinh tế hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn.Trong nhiều năm qua, phải nói là, sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển chính là nhờ khu vực kinh tế tư nhân .Do vậy, ngay trong tư tưởng, phải dành cho khu vực này một vị trí thích đáng. Đảng và Chính phủ ta đa có đường lối và nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân. Các đường lối chủ trương chính sách đã được từng bước luật pháp hóa và cụ thể hóa, đa tạo ra môi trường pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nhìn lại thời gian qua, kinh tế tư nhân đa phát triển rất rực rỡ và có những đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của đất nước. Xuất phát từ lí do đó, em lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kết cấu đề tài gồm 3 phần: Phần I: Lý luận chung về kinh tế tư nhân. Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay Phần III: Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.

docx17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho sự phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá rồng” đã thực hiện, đó là: đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và khu vực tư nhân trong nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và nhất là khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế sẽ phát triển đáng kể, chống đỡ được những chấn động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được nhất là khi nền kinh tế hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn.Trong nhiều năm qua, phải nói là, sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển chính là nhờ khu vực kinh tế tư nhân .Do vậy, ngay trong tư tưởng, phải dành cho khu vực này một vị trí thích đáng. Đảng và Chính phủ ta đa có đường lối và nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân. Các đường lối chủ trương chính sách đã được từng bước luật pháp hóa và cụ thể hóa, đa tạo ra môi trường pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nhìn lại thời gian qua, kinh tế tư nhân đa phát triển rất rực rỡ và có những đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của đất nước. Xuất phát từ lí do đó, em lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kết cấu đề tài gồm 3 phần: Phần I: Lý luận chung về kinh tế tư nhân. Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay Phần III: Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Kinh tế tư nhân 1.1 Khái niệm Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng chủ yếu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa trên sức lao động và vốn của ban thân, gia đình. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. 1.2 Bản chất của kinh tế tư nhân Bản chất của kinh tế tư nhân phân biệt với các khu vực kinh tế khác thể hiện trên ba mặt, đó là: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. - Quan hệ sở hữu: Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở tồn tại của kinh tế tư nhân. Tùy theo quy mô sản xuất người ta phân chia sở hữu tư nhân thành: Sở hữu tư nhân nhỏ: là sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình sản xuất ra sản phẩm bằng sức lao động của chính cá nhân hay hộ gia đình. Loại hình sở hữu này tồn tại chủ yếu trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, quy mô sản xuất nhỏ. Sở hữu tư nhân lớn ra đời dựa trên cơ sở tích tụ tư bản, gắn liền với nền sản xuất lớn, tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. - Quan hệ quản lý Trên mặt quan hệ quản lý, mỗi hình thức có một trình độ khác nhau. Kinh tế cá thể: do dựa trên quy mô nhỏ và hầu như không sử dụng lao động làm thuê, nên sản xuất diễn ra trong phạm vi từng hộ gia đình, người chủ gia đình đồng thời là người quản lý các thành viên. Kinh tế tiểu chủ : là hình thức tổ chức sản xuất, có quy mô sản xuất - kinh doanh lớn hơn kinh tế cá thể, tự mình trực tiếp lao động và thuê thêm một số lao động. Kinh tế tư bản tư nhân: tổ chức quản lý sản xuất được biểu hiện dưới mô hình doanh nghiệp, chủ thể doanh nghiệp đồng thời là chủ thể tư bản, thuê lao động làm thuê và có mục đích tạo ra giá trị thặng dư. - Quan hệ phân phối Thực chất quan hệ này nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Đối với kinh tế cá thể, do dựa vào sức lao động của bản thân mình nên sản phẩm làm ra trực tiếp thuộc về các hộ gia đình về người lao động. Kinh tế tư bản tư nhân thì quan hệ phân phối được dựa trên nguyên tắc : chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm phần lớn giá trị thặng dư, còn người lao động được hưởng phần sản phẩm tất yếu. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, quan hệ phân phối của kinh tế tư bản tư nhân chủ yếu dựa vào sự đóng góp về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động. Sản phẩm thặng dư thuộc về nhà tư bản. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện đại khi mà khoa học - công nghệ, trình độ tổ chức, trình độ tay nghề của người lao động ngày càng quan trọng hơn trong quá trình sản xuất, thì chủ doanh nghiệp không còn là người sở hữu duy nhất về vốn và tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ phân phối trở nên phức tạp hơn. Sản phẩm thặng dư ngoài đóng góp một phần cho Nhà nước, tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, thì được phân phối lại dưới nhiều hình thức khác nhau và cho các yếu tố đóng góp vào quá trình tạo giá trị thặng dư : lao động, tổ chức, quản lý sản xuất - kinh doanh. 2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân - Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân – là động lực để thúc đẩy xã hội phat triển. Lợi ích cá nhân là động lực trước hết để phát triển xã hội. Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, người lao động tự chủ tiến hành hoạt động kinh doanh, do đó hoạt động có hiệu quả. - Kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hóa ở giai đoan cao. Hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Trước khi xuất hiện nền đại công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa còn ở trình độ thấp, đó là nền sản xuất hàng hóa giản đơn, chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là hình thức tiên tiến, gắn liền với nền đại công nghiệp, phát triển cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở hình thức tổ chức này, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất tăng nhanh. - Kinh tế tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế vận hành có hiệu quả. Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến nền sản xuất lớn, hiện đại. Và cơ chế thị trường hiện đại là môi trường để kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân mà điển hình là mô hình tổ chức doanh nghiệp là sản phẩm tự nhiên của kinh tế thị trường, và tự lớn lên trong kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân ở nước ta được khôi phục từ sau công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển, quan hệ sản xuất thống trị xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do vậy, kinh tế tư nhân ở nước ta có một số đặc điểm riêng biệt: - Kinh tế tư nhân ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, là bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Do đó, về mặt bản chất, nó khác với kinh tế tư nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa. - Kinh tế tư nhân ở nước ta mang trong mình những yếu tố có tính xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện ở chỗ: kinh tế tư nhân đại diện cho một lực lượng sản xuất mới góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo… - Các doanh nghiệp tư nhân thông qua hoạt động của mình củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. - Mối quan hệ trực tiếp giữa các chủ doanh nghiệp tư nhân với người lao động trong doanh nghiệp không còn là quan hệ đối kháng, chủ - thợ, quan hệ giữa một bên là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, một bên là người bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất mà là mối quan hệ hợp tác. 3. Các hình thức biểu hiện của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay 3.1 Hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ Hộ kinh doanh cá thể là một chủ thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ gia đình là chủ, mang các đặc điểm sau: Có địa điểm, khu vực sản xuất kinh doanh ổn định, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và vốn. Chủ hộ kinh doanh cá thể toàn quyền quyết định về phương thức quản lý, tổ chức hoạt động kinh doanh, phân phối lợi nhuận. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Sử dụng lao động trong gia đình, dòng họ, giải quyết công ăn việc làm cho bản thân và gia đình. Hộ kinh doanh cá thể được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ, góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, ổn định chính trị xã hội. 3.2 Các loại hình doanh nghiệp của kinh tế tư nhân a. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc điểm: Chủ doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân, chịu trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp toàn quyền quyết định quy mô, phương thức hoạt động, quản lý kinh doanh, sử dụng lợi nhuận sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước. b. Công ty Cổ phần là doanh nghiệp trong đó: - Vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. Như vậy, công ty Cổ phần là một loại hình doanh nghiệp có tính xã hội hóa cao, người lao động có thể trở thành người chủ sở hữu, gắn được lợi ích cá nhân với hoạt động của doanh nghiệp, do đó là một mô hình hoạt động có hiệu quả hiện nay. c. Công ty TNHH là doanh nghiệp, trong đó: - Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không quá năm mươi. - Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. d. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: - Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một cái tên chung, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. - Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. - Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về cá khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 1.1 Khái quát thực trạng phát triển kinh tế tư nhân 1986- 1999. Đây là giai đoạn kinh tế tư nhân được Đảng và Nhà nước thừa nhận là khu vực kinh tế tồn tại khách quan và cần thiết trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, được tạo điều kiện để phát triển. Điều này được thể hiện t rong Hiến pháp năm 1992 “ Công dân Việt nam có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Pháp luật” và thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các kỳ đại hội. Xuất phát từ sự nhận thức và định hướng trên, các cơ chế chính sách của Nhà nước đối với phát triển kinh tế nhiều tư nhân đã có sự chuyển biến rõ rệt và được thể chế hóa qua các đạo Luật kinh tế quan trọng như: Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Công ty (1990), Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994)…, nhờ đó kinh tế tư nhân đã có sự khôi phục và bắt đầu phát triển. Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tạo ra hành lang pháp lý đầu tiên và quan trọng cho kinh tế tư nhân pháp triển. Nhờ vậy, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển khá mạnh, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp thì sau một năm (1992) tăng lên 5.189 doanh nghiệp, năm 2005 là 15.276 doanh nghiệp, năm 1998 có 39.180 doanh nghiêp và đến năm 1999 tổng số lượng doanh nghiệp khu vực tư nhân là 45.601 doanh nghiệp. Giá trị tài sản cố định trung bình của một doanh nghiệp tư nhân năm 1991 là 0,1 tỷ đồng, mức thấp nhất sau đó tăng lên và ổn định trong giai đoạn 1992-1996 là 0,2 tỷ đồng. Ở công ty TNHH giá trị này cũng tăng nhưng không đêu, bình quân khoảng 0,7 tỷ đồng. Số lượng lao động bình quân trong doanh nghiệp tư nhân bình quân là 8 người năm 1991 và là 18 người năm 1998. Tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đạt bình quân 37% trong giai đoạn 1994-1997. 1.2 Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân từ 2000 đến nay Cùng với các chính sạch đổi mới, Luật doanh nghiệp 1999 thay thế Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, Luật doanh nghiệp 2005 thay thế Luật doanh nghiệp 1999 đã tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, thúc đấy tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng doanh nghiệp. * Giai đoạn 2000- 2005 Bảng 1: Số Doanh nghiệp đăng ký mới qua các năm Loại hình DN  1991-1999  2000  2001  2002  2003  2004  2005   Tư nhân  29.135  6.412  2.229  6.532  7.085  10.246  11.366   TNHH  15.310  7.304  7.179  12.627  15.120  20.145  20.674   Cổ phần  524  726  1.243  2.305  3.715  6.470  6.675   Hợp danh   2    1  7  8   TNHH 1 thành viên     59  88  125  130   Tổng số  44.962  14.444  21.040  21.523  26.009  36.993  38.144   Nguồn: Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tính đến hết năm 2005 đã có 158.153 doanh nghiệp đăng ký mới, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật lên 203.115 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký mới trong giai đoạn 2000- 2005 cao gấp 3 lần so với giai đoạn 1991 – 1999. Các doanh nghiệp tư nhân không chỉ tăng về số lượng mà quy mô trung bình và phạm vi hoạt động cũng được mở rộng. Tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân của khu vực kinh tế tư nhân cũng vượt cả khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Bảng 2: Doanh thu thuần của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng Loại hình doanh nghiệp  2000  2001  2002  2003  2004  2005   Tư nhân  71.072  77.512  91.882  103.745  135.715  172.376   Hợp danh  24  16  2.738  10.409  40  53   TNHH  105.892  136.743  203.269  269.696  354.641  442.877   Cổ phần  16.439  36.211  53.572  85.728  135.415  218.529   Nguồn: Tổng cục thống kê Tuy nhiên, quy mô của các doanh nghiệp vẫn còn tương đối nhỏ, chiếm 96% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số vốn đầu tư đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô sản xuất của khực kinh tế tư nhân tăng nhanh, năm 2001- 2005 đạt 293.878 tỷ đồng. Nguồn vốn của khu vực này đã đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước và là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương ở tất cả các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. *Giai đoạn 2005- 2007 Với mục tiêu đến năm 2010 cả nước có 500.000 doanh nghiệp hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân, tính đến hết năm 2007, cả nước có khoảng 260.000 doanh nghiệp với số vốn khoảng 600.000 nghìn tỷ đồng. Trong đó, số lượng loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm gần 47%, doanh nghiệp tư nhân chiếm 36,4% và công ty cổ phần chiếm hơn 15%. Tuy nhiên, 75% số doanh nghiệp này có mức vốn dưới 2 tỷ đồng, thu hút 90% lao động hàng năm. 2. Đánh giá đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân - Thứ nhất, đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là tạo thêm được nhiều việc làm, góp phần quan trọng thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là những người đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế hay giải thể. Hiện nay, các doanh nghiệp này đã giải quyết việc làm mới cho trên 541 ngàn người mỗi năm. Trong quá trình phát triển doanh nghiệp đã có sự sắp xếp và phân bổ lại theo xu hướng tích cực, phù hợp với chủ trưởng phát triển doanh nghiệp của Nhà nước. - Thứ hai, huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Vốn sử dụng, vốn đầu tư phát triển và vốn đăng ký kinh doanh đều tăng. Đến nay số vốn huy động đã lên tới con số 600.000 nghìn tỷ đồng. - Thứ ba, đóng góp vào GDP với tỷ trọng khá lớn và ổn định.Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn vào sựổn định trong GDP. Năm 2000, kinh tế tư nhân đạt gần 187.720 tỷ đồng, chiếm hơn 42% GDP toàn quốc (khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm 39%). Nếu xem xét cụ thể, riêng hộ kinh doanh đóng góp trên 154.560 tỷ đồng, chiếm gần 82,35%; doanh nghiệp đóng góp trên 33.150 tỷ đồng, chiếm trên 17,60% GDP của kinh tế tư nhân. Đến năm 2006 là 53% GDP. Bên cạnh đó, đầu tư hàng năm của doanh nghiệp chiếm khoảng 55% trong tổng đầu tư chung của cả nước, và tỷ trọng này đang ngày càng có xu hướng tăng lên. - Thứ tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đa góp phần mở mang nhiều ngành nghề và lưu thông hàng hóa, sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng vùng và trong cả nước. Một số sản phẩm đa góp phần chặn đứng và đẩy lùi được sự xâm nhập của hàng ngoại nhập. Kim ngạch xuất – nhập khẩu trực tiếp của kinh tế tư nhân ở khu vực phi nông nghiệp tăng khá nhanh, năm 2001 nhập khẩu đạt trên 3,30 tỷ USD, xuất khẩu đạt trên 2,85 tỷ USD. Đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động tốt, tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, sản phẩm hàng hóa được người tiêu dùng tín nhiệm. - Thứ năm, kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân phát triển sẽ thúc đấy sự phát triển của các thị trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam sẽ không phát triển nếu vắng bóng kinh tế tư nhân và nó cũng khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương của “ý Đảng, lòng Dân”. 3. Những hạn chế, khó khăn trong phát triển kinh tế tư nhân Thứ nhất, phần lớn quy mô các doanh nghiệp nhỏ, mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Trừ số doanh nghiệp vừa và lớn có công nghệ khá hiện đại, còn lại hầu hết là công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công, bán cơ khí và cơ khí, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, dẫn đến tình trạng kinh doanh không ổn định, không có định hướng lâu dài. Thứ hai, kinh tế tư nhân hiện nay rất thiếu vốn sản xuất, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời gian ngắn, rất khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là nguồn vốn ưu đãi của nhà nước. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp, nhiều doanh nghiệp của tư nhân thiếu thông tin để tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Thứ ba, kinh tế tư nhân phải đối mặt với khó khăn về đất đai để có mặt bằng kinh doanh. Do mặt bằng kinh doanh chật hẹp, nhiều doanh nghiệp phải sử dụng nhà ở, đất của gia đình trong khu dân cư làm nơi sản xuất, gây ô nhiễm môi trường. Nhiều doanh nghiệp phải đi thuê lại đất, nhà xưởng của các doanh nghiệp nhà nước bỏ hoang với tiền thuê đất cao hơn rất nhiều so với giá quy định của nhà nước, nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư lâu dài vào nhà xưởng, máy móc thiết bị vì lo phải trả lại đất thuê. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chuyển mục đích sử dụng đất, thủ tục liên quan đến đất đai rườm rà, mất nhiều thời gian và công sức, chi phí và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ tư, khó khăn của chính khu vực kinh tế tư nhân trong d
Luận văn liên quan