Đề tài Phương hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức trước hết phải quan niệm đúng đắn về giá trị sức lao động. Đó là toàn bộ những chi phí cần thiết về ăn, mặc, ở, đi lại bù đắp cho một lượng nhất định về cơ bắp, trí tuệ đã hao phí để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường đồng thời tái sản xuất ra sức lao động cả về số lượng và chất lượng trong những điều kiện kinh tế xã hội ổn định. Do đó, khi đồng tiền mất giá, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì tiền lương danh nghĩa phải được điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền lương thực tế cho người lao động. Mới đây chính phủ đã quyết định tăng 20% lương cơ bản cho công nhân viên chức, đây là một điều đáng mừng, khích lệ tinh thần làm việc và hiệu quả cao của công nhân viên chức. Đồng thời, trong phiên họp thường kì vào tháng 6 năm 1999 chính phủ cũng đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của tình hình kinh tế xã hội và các giải pháp chống thiểu phát (tức là lưu thông luôn thiếu tiền dẫn đến giá cả hàng hóa, dịch vụ giảm xuống một cách phổ biến trong khi tiền giấy trong kho bạc của nhà nước lại đầy ắp), thiết lập quan hệ giá cả thị trường hợp lý, kích thích sản xuất phát triển. từ đó, ta cần sửa đổi, hoàn thiện thang, bản lương cho cán bộ công chức nhà nước và chế độ phụ cấp đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ công chức bảo đảm các yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ, công chức hưởng lương nhà nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng dần lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức nhà nước. Trước mắt cần có sự đột phá, khắc phục sự lạc hậu và bất hợp lý của chính sách tiền lương tối thiểu hiện hành. Đồng thời, phải có chính sách phân phối thật công bằng, “làm theo năng lực hưởng theo lao động ”, tránh tình trạng một số ngành thì lương cao, trong khi một số ngành khác lương lại thấp cho dù hao phí lao động bỏ ra như nhau. Ví dụ như ngành bưu điện, điện lực, lương nói chung (gồm cả lương cơ bản + thưởng + các khoảng lương khác) rất cao, chênh lệch nhiều so với thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ở các ngành khác, như ngành ngân hàng. Ngay trong ngàng ngân hàng chính sách tiền lương cũng có nhiều cấp bật, lương ở ngân hàng nhà nước thấp hơn nhiều so với ở các ngành ngân hàng khác như ngân hàng ngoại thương. Chẳng hạn một kĩ sư tin học trong một chi nhánh ngân hàng nhà nước có tiền lương và thưởng tết xấp xỉ một triệu đồng, trong khi đó một nhân viên đưa thư của ngành bưu điện lại có lương và thưởng tết dao động từ 2 đến 3 triệu đồng. Sự chênh lệch này lý giải được nguyên nhân vì sao ở những ngành độc quyền người ta đang đổ xô tranh nhau vào, gây tình trạng dư thừa lao động, còn ở những ngành khác đầu vào lao động lại thiếu trầm trọng. Chính phủ cần phải có những biện pháp điều chỉnh hợp lí về đầu vào ở các trường đại học và phải tạo được động lực phát triển. – Chính sách đối với những người làm khoa học : những người làm khoa học trước hết là những con người, họ cũng quan tâm đến lợi ích cá nhân để sống. Họ cũng cẩn tiền nhưng không phải vì tiền. Nếu họ có tiền để mở rộng phạm vi các quan hệ khoa học mà lại được trọng dụng thì chắc chắn thành quả rất lớn, chính vì không được trọng dụng thậm chí còn bị coi thường, phải nhận đồng lương thấp hơn cả lao động đơn giản. Không đủ sống bằng chính nghề nghiệp của mình cho nên tình trạng người làm khoa học có trình độ khá phải chuyển nghề hoặc giành nhiều thời gian hơn cho công việc khác thât sự là một nguy cơ nếu không khắc phục sớm tình trạng này thì nguy cơ sẽ trở thành thảm họa.

doc19 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Lý luận chung về nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. 1.1 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Công nhiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đại hội Đảng lần thứ VII rút ra từ thực tiễn công nghiệp hóa trên thế giới và ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ , tạo ra năng suật xã hội cao. Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một nhiệm vụ to lớn và một yêu cầu khách quan bởi vì cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn, điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ những yếu tố cơ sở sản xuất được cơ khí hóa mà trình độ công nghệ phải tiên tiến và thường xuyên được đổi mới. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền sản xuất hiện đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi căn bản kỹ thuật công nghệ sản xuất tăng năng suất lao động. Công nghiệp hóa chính là thực hiện xã hội hóa về mặt kinh tế - kỹ thuật tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v...[ - 22:28, ngày 14 tháng 11 năm 2007 ] Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất, đặc biệt là trong nền sản xuất lớn hiện đại kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người làm cho con người trở nên hiện đại nắm bắt được những tiến bộ mới. Như vậy, thực chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tạo một nền sản xuất lớn, hiện đại với mục tiêu cuối cùng là phát triển con người toàn diện và con người ở đây không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất mà còn có tư cách là công dân trong xã hội. Một cá nhân trong tập thể cộng đồng. Đó không chỉ là dội ngũ những người lao động có trình độ mà còn là những công dân yêu nước ý thức được nguy cơ tụt hậu để cùng nhau cố gắng vì sự nghiệp chung . Như vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa xuất phát từ yếu tố con người và cũng từ con người tạo nên. Thật vậy, trong cơ chế quản lý, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp của xã hội thời kỳ trước đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra những mối quan hệ sản xuất không phù hợp dẫn đến tình trạng trì trệ, kém phát triển, kinh tế đời sống của người lao động không đảm bảo trong khi nhu cầu của con người ngày càng phát triển do đó đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý mới, một môi trường xã hội mới để đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các mối quan hệ ngày càng phát triển của con người và công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi tất nhiên và mang tính khách quan để tạo ra một nền sản xuất hiện đại vì một cộng đồng ngày mai. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ xuất phát từ yếu tố con người mà do con người tạo nên mà khi nào có nguồn nhân lực mới thành công bởi như đã phân tích ở trên con người là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất vật chất và hiện đại, trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đội ngũ người lao động, các cán bộ đầu ngành, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi tất yếu trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế đất nước. 1.2 Vai trò của con người trong quá trình sản xuầt và phát triển khoa học – công nghệ Để thấy được vai trò con người, ta đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khai thác ở mức dộ chi phối của nó đến sự thành công hay sự thất bại của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong tình hình hiện nay khi cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại khi công nghiệp hóa gần với hiện đại hóa lực lượng sản xuất thì vai trò quyết định của con người thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người, bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết gắn các nguồn lực thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Ai cũng biết muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải có vốn nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những lợi thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất đi nếu như chủ nhân của nó không có khả năng khai thác. Xét đến cùng thì thiếu sự hiện diện của lao động và trí tuệ của con người thì mọi nguồn lực trở thành vô nghĩa. Thứ hai, các nguồn lực khai thác chỉ là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, hơn thế nó còn đổi mới không ngừng nên được chăm lo và khai thác hợp lý. Con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra nhiều tài nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây trí tuệ con người đạt đến mức con người có thể sáng tạo ra những máy móc mô phỏng trí tuệ con người. Thứ tư, kinh nghiệm mà nhiều nước và thực tiễn của nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định chính sách, đường lối chủ trương như tổ chức và thực hiện. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không đạt kết quả tốt nếu không lựa chọn mô hình và hướng đi đúng với các giải pháp hữu hiệu phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước cho dù nó có đủ các nguồn lực khác, điều này lại nói lên một lần nũa vai trò của con người – chủ thể trực tiếp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tóm lại, tiềm năng sức lao động – con người với trí tuệ được định hướng là tài sản quý giá, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, vai trò này càng tăng lên khi trí tuệ hóa lao động đang trở thành xu thế phổ biến vì thế trong chiến lược phát triển của mình các quốc gia đã đặt vị trí con người vào trung tâm. 1.3 Vai trò quyết định của nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Trước hết là nói đến vai trò tổng quát quyết định lịch sử của con người, được biểu hiện qua ba nội dung: - Con người là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp xản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. - Con người là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. - Con người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.[trang 485-486 tài liệu số 2] Trong nghị quyết hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII khẳng định: “ sự nghiệp công nghiệp hóa có thành công hay không, đất nước Việt Nam bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào con người”. Con người có vai trò, vị trí quan trọng không gì có thể thay thế trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang thực hiện với những thành công bước đầu đòi hỏi mỗi chúng ta nhận thức một cách sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước lạc hậu như chúng ta không thể xuất phát từ: “ Tinh thần nhân văn sâu sắc”. Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: “ Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn lực tổ chức lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định sự thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Để thực hiện mục tiêu, chiến lược mà đại hội VII đề ra cần khai thác và sử dụng hợp lý nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và vật chất còn hạn hẹp, nguồn lực đó là lao động trí tuệ cao, có tay nghề thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng, phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại, giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học và công nghệ. Với bối cảnh nước ta hiện nay, với bối cảnh quốc tế đương thời để phát triển, phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người, Đồng chí tổng bí thư Đỗ Mười nói: “ Nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội chúng ta chỉ có thể tăng cường, nguồn lực con người khi hiện đại hóa ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, gắn liền với phát huy và kế thừa những truyền thống và bản sắc của dân tộc”. Ở các nước phát triển khác nhân tố con người rất được coi trọng: Nếu ở Mỹ, người ta chú trọng phát huy cao độ năng lực cá nhân, lợi ích cá nhân, thì ở Nhật lại rất chú ý phát huy năng lực cộng đồng và năng lực cá nhân trong cộng đồng bằng những cơ chế nghề nghiệp vi mô, tinh vi, cụ thể thích hợp ở từng công ty, xí nghiệp.[trang 194-206 tài liệu số 3] Như vậy vấn đề về nguồn lực con người đã được cụ thể hóa trong các chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và đã được xếp lên hàng đầu trong các chính sách và biện pháp thực hiện. Sở dĩ như vậy là vì con người có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng không có gì thay thế được trong tình hình phát triển lịch sử của nhân loại và bản thân sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng vậy. Chương II: Thực trạng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. 2.1 Thực trạng về nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa: – Cơ cấu các nhóm tuổi trong số dân (1-4-1999) của nước ta là: +Dưới độ tuổi lao động: 33,1% +Trong độ tuổi lao động: 59,3% +Ngoài độ tuổi lao động: 7,6% [trang 12 tài liệu số 1] Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối nghiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên bức thiết. Trong khi đó khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung cầu về số lượng và nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động và việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư giáo dục và đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lục nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng cung về chất lượng vẫn không đáp ứng được cầu về mặt thể lực, trí lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam. Đội ngũ tri thức Việt Nam, những người lao động trí tuệ cao, phức tạp đã trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước từ năm 1945, nhất là từ khoảng 20 năm trở lại đây, tri thức Việt Nam phát triển khá nhanh về số lượng và chất lượng, hiện nay nhà nước ta có khoảng 70 vạn tri thức trở lên. Đây là một lực lượng hết sức quan trọng, trong thời gian qua tri thức đã đóng góp rất lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Tuy nhiên so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì chưa đủ về số lượng còn chất lượng thì hạn chế. Mặt khác, đội ngũ tri thức ở nước ta hiện nay phân bố không đều, phàn lớn tập trung ở các trung tâm thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, và một số trung tâm công nghiệp lớn khác, đều này do tác động của cơ chế thị trường đối với sự phân công lao động trong cả nước. Do chính sách đầu tư giữa các ngành, các vùng, nhất kà vùng cao, vùng xâu vùng xa, vùng dân tộc có ít người, ở những vùng này rất ít tri thức mà nếu có thì chất lượng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do yếu tố tâm lý của người dân tộc nên việc bồi dưỡng, nâng cao giáo dục và đào tạo lại chưa được chú ý một cách thỏa đáng. Lực lượng tri thức ở nước ta tuy còn mỏng nhưng theo đánh giá của các nhà khoa học quốc tế thì đó là lực lượng có trình độ cao. Một số đã được các nhà khoa học nước ngoài chú ý và đánh giá cao qua những kết quả nghiên cứu của họ. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau chủ quan và khách quan đã dẫn đến tình trạng “bạc chất xám”, “chảy máu chất xám”, “lãng phí chất xám”, và “rò rỉ chất xám”. Đây là một vấn đề nghiêm trọng hiện nay. Đội ngũ cán bộ nước ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của công việc đổi mới do hạn chế của quá trình đào tạo ở nước ta nhất là trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh nhưng nó là vốn ban đầu rất quí mà mỗi quốc gia muốn có được, tiếc thay nước ta đang tổn phí nguồn tài nguyên ấy, tiếc hơn nữa là không phải ta không nhận thấy tầm quan trọng của nó, mà các chính sách đã làm giảm thậm chí làm mất đi tính sáng tạo của những người làm khoa học bắt nguồn từ những khiếm khuyết, khe hở trong các chính sách và cơ chế đó. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và việc giảm đầu tư của nhà nước cho giáo dục thì số giáo viên, học sinh, sinh viên không những giảm dần so với tỉ lệ số dân mà còn giảm cả số lượng tuyệt đối ở các cấp học trong khi dân số lại tăng. Nguồn bổ sung chủ yếu cho đội ngũ lao động trí thức Việt Nam ở nước ngoài đang học tập và công tác, các cơ sở khoa học của cả nước, các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên nếu lấy từ mức năm 1986 thì số học sinh phổ thông, bổ túc văn hóa chuyên nghiệp đại học đang giảm dần. Tỷ lệ sinh viên đại học và cao đảng tính trên số dân rất thấp: nếu năm 1988 có 260 người/1000 dân thì đến năm 1992-1993 tỳ lệ giảm xuống còn 204/1000 dân. Trong khi số người được đào tạo giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên, chẳng hạn năm 1988 đến nay số sinh viên tốt nghiệp trường đại học và cao đẳng khu vực Hà Nội chưa tìm được việc làm tăng từ 13,4% lên 35,38%. Sự thừa đó là do cơ chế thị trường đã không chấp nhận một bộ phận giới trẻ thuộc một số ngành đào tạo. Tóm lại, điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao hơn với nhiều nước trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực học tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục và đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có của nước ta. Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay. 2.2 Vai trò của nhân lực trong thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Có thể thấy rằng, quá trình CHN-HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá.[ 30-07-2007] Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là : nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý), cơ sở vật chất tiềm lực khoa học kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiện quản lý. Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển của con người, do con người, vì con người. Con người làm ra lịch sử của chính mình và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh hằng đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã đồng thời chỉ rõ xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất do con người và những công cụ sản xuất do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của xã hội qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính con người và quyết định quan hệ của con người với con người trong sản xuất. Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người đó là trí tuệ, bởi vì tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông qua đầu óc họ, tức là thông qua trí tuệ vả yếu tố sức khỏe. Yêu cầu không thể thiếu được đối với ngành lao động bao gồm sức khỏe, thể lực và trí lực, ngoài ra còn phải có sức mạnh của niềm tin và ý chí. Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam. Ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội lực quan trong nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh và nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục và đào tạo đóng vai trò hàng đầu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đòi hỏi tiếp thu một cách có hiệu quả những tri thức của thế giới. Đồng thời phát huy năng lực nội sinh của đất nước. Điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của đội ngũ tri thức, những người lao động trí óc, sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở nước ta cần đòi hỏi phát triển một cách liên tục và mạnh mẽ đội ngũ tri thức, đội ngũ các nhà khoa học hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chương III: Phương hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.1 Xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ sở đó phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa : Chúng ta đã biết nguồn lực con người cùng với trí tuệ của họ là những yếu tố quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng nhìn lại hiện trạng nguồn lực con người nước ta hiện nay không khỏi có những suy nghĩ. Lực lượng lao động tuy dồi dào, con người cần cù, chịu khó sáng tạo nhưng còn hạn chế về chất lượng. Tìm ra các hình thức, phương pháp để phát huy nhân tố con người là vấn đề hết sức tỉ mỉ trên từng lĩnh vực. Một số giải pháp và phương thức chủ yếu là : +Một là: phải điều tra, khảo sát đánh giá những mặt mạnh, những mặt yếu của con người và các tầng lớp xã hội ở các ngành, địa phương. Phân loại từng đối tượng, từng thế hệ, từng giới trong từng hoàn cảnh…để có sự hiểu biết cụ thể thì mới có phương thức, giải pháp cụ thể phát huy những nguồn lực, nhân tố tích cực của con người, hạn chế những mặt tiêu cực không có lợi cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. +Hai là : ưu tiên và đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo. Đây là biện pháp cấp bách nhất hiện nay, có thông qua giáo dục và
Luận văn liên quan