Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển hàng hóa trong nền kinh tế thị trường

Tóm lại, Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hóa là từ kinh tế hàng hóa giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. Ở đây, chúng ta gặp lại vấn đề từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị trường. Chúng ta sẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng hóa lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa.trong thời gian tới để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm tạo môi trường pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm về mặt xã hội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước để hệ thống này thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của đất nước, vừa phòng ngừa, vừa chống tham nhũng, lãng phí một cách hiệu quả nhất. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật còn phải bảo đảm phù hợp với các thông lệ quốc tế bởi Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Đồng thời hệ thống pháp luật phải góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường của Việt Nam.Các chính sách về phân phối, trợ cấp phải bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng cho những người có công, những đối tượng được hưởng chế độ chính sách xã hội và giảm bớt khoảng cách về thu nhập cho mọi đối tượng lao động giữa các thành phần kinh tế. Chính sách dân tộc phải được hoàn thiện hơn để bảo đảm khối đoàn kết đại dân tộc.Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần kiện toàn lại bộ máy nhà nước; xây dựng cơ chế hoạt động có hiệu quả; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời có biện pháp xử lý những cán bộ tha hóa về phẩm chất, yếu kém về năng lực; phát huy dân chủ để xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân.Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi chỉ có như vậy việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới thực sự đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này một mặt quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác Đảng cũng cần phải luôn đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2457 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Lý luận chung về sự phát triền của yếu tố hàng hoá trong thực tiễn nền kinh tế thị trường của nước ta Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong quá trình phát triển kinh tế,và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thế giới đang ngày càng trở thành một thị trường thống nhất lôi cuốn tất cả các nước chuyển sang kinh tế thị trường và gia nhập vào thị trường quốc tế. Do đó, hoà với sự phát triển của kinh tế thị trường trên thế giới thì kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng phát triển với một tốc độ không kém cùng với sự phát triển của nền sản xuất thể hiện qua việc thế giới hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng , tính chất của hàng hoá ngày càng phức tạp.Vậy, để hiểu hơn về “ sự phát triển của yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế thị trường qua thực tiễn kinh tế nước ta” diễn ra như thế nào chúng ta hãy cùng nhau xem những phân tích dưới đây: ( Lý luận chung về sự phát triển của yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế thị trường: Khái niệm hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá 1. Khái niệm hàng hoá Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá ccó hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. 2. Hai thuộc tính của hàng hoá Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoã mãn nhu cầu nào đó của con người. Chính công dụng của vật phẩm làm cho nó trở thành một giá trị sử dụng. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, càng phát hiện ra nhiều thuộc tính tự nhiên của vật chất do đó ccàng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng hơn để đáp ứng nhu cầu xã hội. Giá trị Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, cho nên, đẻ hiểu giá trị phải bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa giá trị sử dụng của loại hàng hoá này với giá trị sử dụng của loại hàng hoá khác. Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc Tóm lại: hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng đó là sự thống nhấ của hai mặt đối lập thể hiện ở chỗ: đối với người sản xuất hàng hoá, mucc dích của họ là giá trị, họ chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là dể đạt mục đích giá trị. Ngược lại, đối với người mua, mục đích lại là giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. (1 trang 40) Lưọng giá trị hàng hoá Thời gian lao dộng xã hội cần thiết: Thời gian lao đông xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ kỹ thuật công nghệ trung bình, trình độ quản lý trung bình, trình độ chuyên môn tay nghề trung bình và cường độ lao động trung bình Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá: thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, do đó lượng giá trị xã hội của hàng hoá cũng luôn thay đổi. Lượng giá trị xã hội của một đơn vị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội và tỷ lệ thuận với lượng lao động xã hội hao phí. (1 trang 45) Các quy luật ảnh hưởng đến yếu tố hàng hoá trong nền kinh tế thị trường( KTTT) Quy luật cạnh tranh Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa cácc chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh với nhau, nhằm giành những điều thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá, dich vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.cạnh tranh sẽ giúp thúc đẩy sxuất phát triển mạnh mẽ.Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có mặt trái của nó, đó là tình trạng làm hàng giả, đầu cơ, trốn thuế…. Quy luật cung - cầu và giá cả thị trường Cung - cầu thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường độc lập với ý chí con người. Cầu xác định lưọng cung và ngược lại cung xác định lượng cầu.Quan hệ cung -cầu tác động lên giá cả và ngược lại, giá cả tác động lên cung -cầu. Trong nền KTTT, giá cả thị trượng là hình thức biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.giá cả thị trường được hiểu theo nhiều quan niệm sau:giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả là tương quan tỷ lệ giữa hàng hoá và tiền tệ. Giá cả là số tiền mà người mua phải trả cho người bán. (1 trang 60, 61) Tác dụng to lớn của sự phát triển yếu tố HH trong nền kinh tế thị trường Sự phát triển của yếu tố hàng hoá(YTHH) trong nền kinh tế thị trường có tác dụng tích cực đến các mặt : - Một là, sự phát triển của HH sẽ tạo ra nhiều loại HH trên thị trường với đủ chủng loại, mẫu mã được cải tiến,chất lượng được nâng cao, cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Điều này giúp cho sản phẩm HH của nước ta có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. - Hai là, phát triển HH tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng hóa ,buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật,áp dụng công nghệ mới, không ngừng sang tạo đẻ tạo ra nhiều loại sản phẩm với chi phí sản xuất tố thiểu nhòe đó mới có thể đứng vững được trên thị trường. quá trình đó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. - Ba là, sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất cũng phát triển sâu rộng hơn cùng với sự phát triển của hàng hóa. HH trong khu vực nào càng đa dạng, chất lượng tốt, thì một điều chắc chắn rằng ở khu vực đó có sự phâen công lao động và chuyên môn hóa sản xuất cao. - Bốn là, về mặt khách quan HH được phát triển mạnh cả về chất và lượng sẽ giúp cho người tiêu dùng có được nhiều sự lựa chọn hơn. Trong khi xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu của con người cần được thỏa mãn nhu cầu mua sắm, vật chất ngày càng cao. Do đó, việc phát triển HH là tính tất yếu trong một xã hội phát triển. Tính tất yếu của sự phát triển yếu tố HH trong nền KTTT trong thực tiễn kinh tế nước ta hiện nay - Thứ nhất, nền KTTT nước ta hiện nay là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt vừa có những tính chất chung của nền KTTT. Mặt khác, nó cũng có những đặc trưng bản chất như: nền KTTT gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thực hiện phân phối theo thu nhập lấy phân phối theo lao động là chủ yếu,vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước….. Do đó, khi KTTT phát triển theo đó là sự phát triển của kinh tế HH thì yếu tố HH trong nền kinh tế cũng phải phát triển. - Thứ hai, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho nên tính cạnh tranh trên thị trường sẽ gắt gao hơn, HH trên thị trường đa dạng, phong phú về chất lượng, giá cả, nguồn gốc. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì trong những năm sắp tới thị trường HH Việt Nam sẽ có những biến động lớn đặc biệt là sự tăng vọt khối lượng HH trên thị trường hàng công nghiệp và dịch vụ. - Thứ ba, do đòi hỏi khách quan của chi tiêu tiêu dùng xã hội khi mà thu nhập khả dụng không ngừng tăng, đã kéo theo sự cần thiết phải tăng chi mua HH. Vì vậy, HH phát triển phát triển là điều tất yếu để thỏa mãn mọi nhu cầu trong xã hội. Chương II: Thực trạng của sự phát triển hàng hóa trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay. I. Thực trạng của sự phát triển hàng hoá Một câu hỏi được đặt ra là: “ Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy?” Có nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa thật sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nông, thủy sản làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, đòi hỏi rất cao về chất lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đại thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Chúng ta sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản xuất, chế biến quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất khẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy mô mọi thứ phải lớn. Con đường đi lên sản xuất lớn của chúng ta hiện nay là con đường thị trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế gia đình, nhưng nếu biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu của nền kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản xuất, khoa học và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại. Thực tế nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do hệ thống công cụ còn lạc hậu, lao động thủ công còn nhiều cho nên chất lượng sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp còn thấp kém, khả năng của nó trên thị trường quốc tế và ngay cả thị trường trong nước còn kém. Trước đây khi còn quan điểm không đúng: Đối lập chủ nghĩa xã hội với kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ( vì cho rằng kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản) thì nhiều người nhận thức và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường mà nếu còn tồn tại chỉ là một kiểu kinh tế hàng hóa đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hóa còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa). Muốn tiến lên CNXH phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất do đó CNXH tất yếu cũng không còn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.Như vậy mâu thuẫn với thực tế khách quan: CNXH vẫn sẽ còn kinh tế hàng hóa ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu và tư liệu sản xuất. Ta có thể chia sự phát triển của yếu tố hàng hóa ra thành 2 giai đọan: Trước đổi mới (1986) và Sau đổi mới để thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ ,rõ rệt của yếu tố HH qua từng giai đoạn: ( Giai đọan trước 1986: Nền kinh tế VN theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, các đơn vị sản xuất, kinh doanh họat động theo những chỉ tiêu được giao và những mệnh lệnh từ cấp trên. Trong giai đọan này này không có sự phân biệt giữa quản lý nhà nước và quản lý các đơn vị kinh tế. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh rất ít quyền chủ động. Các nhà máy được cung cấp nguyên vật liệu, vật tư kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm. Việc phân phối, tiêu thụ hàng hóa do các đơn vị thương nghiệp thực hiện. Người tiêu dùng tiếp nhận hàng hóa một cách thụ động không có quyền lựa chọn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng ta luôn ở trong tình trạng khan hiếm hàng hóa. Hàng hóa sản xuất ra bất kể xấu tốt thế nào đều tiêu thụ hết.Hàng hóa xuất khẩu thường bị khiếu nại về chất lượng. Chủng loại, cơ cấu hàng hóa ngày càng nghèo nàn. HH không được đổi mới cải tiến, lạc hậu thấp kém so với HH ngoại. Tình trạng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội. ( Giai đọan từ 1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp được trao quyền chủ động trong mọi họat động, xóa bỏ bao cấp. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất lượng HH, dịch vụ trở thành vấn đề quyết định. Do đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh không ngừng đưa ra thị trường nhiều lọai HH với mẫu mã, chủng loại khác nhau và chất lượng ngày càng nâng cao. Vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa sẽ tốt hơn và người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn khi mua HH. ( Một số ví dụ so sánh tình hình phát triển HH thời kì trước và sau đổi mới Trước thời kì đổi mới (thời bao cấp) giáo dục không phải là hàng hóa người ta thường bị dị ứng khi nghe các loại hình dịch vụ về giáo dục, nhìn chung khi đó chỉ có khối hệ thống trường học của các trường công lập( trường do nhà nước mở). Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, giáo dục cũng bị tác dụng của quy luật cung cầu và nó cũng là một loại HH. Bên cạnh các trường công lập, hiện nay hệ thống các trường dân lập (trường do tư nhân mở) cũng phát triển không kém về chất lượng giảng dạy, số lượng học sinh. Đã có rất nhiều dịch vụ về giáo dục được mở ra ở các trường dân lập nhằm thu hút học sinh theo học và cạnh tranh thật sự với các trường công lập. Hay như trong ví dụ về việc sử dụng tư liệu sản xuất của người nông dân: Trước đây ,tư liệu sản xuất đều là của công thuộc quyền sở hữu của họ (ruộng đất, hồ ao, các công trình thủy lợi, thủy điện, kể cả sức lao động) nhưng trong nền KTHH nhiều thành phần nước ta hiện nay, thì các TLSX đó cũng được trao đổi, mua bán như một loại HH. Rõ hơn nữa là ví dụ thực tế về việc sử dụng đối với TLSX quan trọng như đất đai. Vào giai đoạn trước khi đổi mới, đất đai được nhà nước khoán cho người dân canh tác với từng loại cây trồng cụ thể dẫn đến năng suất cũng như phẩm chất đều kém. Trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động của cơ chế thị trường trong việc điều chỉng phân bố lại tài nguyên đất trong nông nghiệp. Tác động của cơ chế cạnh tranh, các thửa ruộng mới được những nông dân thích hợp canh tác dưới phương thức sử dụng đất đai có lợi nhất cho đến nay thị trường đất đai ngoài phát triển trong nông nghiệp thì nó còn phát triển một cách mạnh mẽ và hình thành một thị trường HH rất sôi động đó là “ thị trường bất động sản”. Đặc biệt, KTTT phát triển hiện nay đã tạo ra nhiều loại HH mà trước thời kì đổi mới không có hoặc hầu như không phát triển nổi bật như chứng khoán.Tuy còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với HH còn nghèo nàn mặc dù chưa phát triển thành phong vũ nhưng nó dự báo một tương lai rộng mở cho thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. ( Dựa vào đặc điểm của từng loại HH và mục đích sử dụng chúng ta có thể chia HH hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông, lâm,thủy sản và hàng dịch vụ.Dưới đây là bảng số liệu về sản lượng 1 số sản phẩm chủ yếu và chỉ tiêu cơ bản về sản xuất lúa thời kỳ 1990-2000.  Năm 1990  Năm 2000   Sản lượng dầu thô (triệu tấn) Điện (tỉ kwh) Than sạch ( triệu tấn) Thép cán ( triệu tấn) Xi măng ( triệu tấn) Giấy ( vạn tấn)  2,7 8,7 4,6 0,1 2,5 7,8  16,5 26,6 10 1,7 13,4 30   Nguồn: tổng cục thống kê: tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 1991- 2000  Diện tích ( triệu ha)  Năng suất ( tạ/ha)  Sản lượng lúa ( triệu tấn)  Lương thực bình quân/ người ( kg)  Gạo xuất khẩu ( triệu tấn)   1990 1995 1998 1999 2000  6,0 6,7 7,36 7,64 7,78  31,9 36,9 39,6 41,0 42,5  19,2 24,4 29,1 31,4 32,0  325 360 385 410 444  1,6 3,1 3,8 4,6 4,5   Nguồn: niên giám thống kê ( 1999, 2000)  Diện tích     Sản lượng    Tổng số  Chia ra   Tổng số  Chia ra     Lúa đông xuân  Lúa hè thu  Lúa mùa      Lúa đông xuân  Lúa hè thu  Lúa mùa               Nghìn ha   Nghìn tấn              1990  6042,8  2073,6  1215,7  2753,5   19225,1  7865,6  4090,5  7269,0   1991  6302,8  2160,6  1382,1  2760,1   19621,9  6788,3  4715,8  8117,8   1992  6475,3  2279,0  1448,6  2747,7   21590,4  9156,3  4907,2  7526,9   1993  6559,4  2323,6  1549,1  2686,7   22836,5  9035,6  5633,1  8167,8   1994  6598,6  2381,4  1586,1  2631,1   23528,2  10508,5  5679,4  7340,3   1995  6765,6  2421,3  1742,4  2601,9   24963,7  10736,6  6500,8  7726,3   1996  7003,8  2541,1  1984,2  2478,5   26396,7  12209,5  6878,5  7308,7   1997  7099,7  2682,7  1885,2  2531,8   27523,9  13310,3  6637,8  7575,8   1998  7362,7  2783,3  2140,6  2438,8   29145,5  13559,5  7522,6  8063,4   1999  7653,6  2888,9  2341,2  2423,5   31393,8  14103,0  8758,3  8532,5   2000  7666,3  3013,2  2292,8  2360,3   32529,5  15571,2  8625,0  8333,3   2001  7492,7  3056,9  2210,8  2225,0   32108,4  15474,4  8328,4  8305,6   2002  7504,3  3033,0  2293,7  2177,6   34447,2  16719,6  9188,7  8538,9   2003  7452,2  3022,9  2320,0  2109,3   34568,8  16822,7  9400,8  8345,3   2004  7445,3  2978,5  2366,2  2100,6   36148,9  17078,0  10430,9  8640,0   2005  7329,2  2942,1  2349,3  2037,8   35832,9  17331,6  10436,2  8065,1   Sơ bộ 2006  7324,4  2988,6  2323,3  2012,5   35826,8  17530,7  9714,5  8581,6   Bảng trên cho thấy từ năm 1990- 2000, sản lượng công nghiệp Việt Nam tăng mạnh, so với năm 1990 sản xuất dầu thô năm 2000 tăng gấp 6 lần, sản lượng điện gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần .Trong khi đó sản xuất nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến căn bản: diện tích canh tác, năng suất lúa, sản lượng lương thực và sản lượng gạo xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Tuy nhiên, khi nói đến hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản lượng thì HH của nước ta không thể đứng vững trên thị trường được, muốn tồn tại và phát triển ta cần phải nâng cao chất lượng HH. Chất lượng chính là sự đáp ứng yêu cầu của người sử dụng tức là HH sản xuất ra phải phù hợp với mục đích và điều kiện sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Hiện nay chất lượng được đánh giá thông qua ISO ( từ vựng chất lượng). Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sẽ thay đổi qua các năm tùy vào sự phát triển của nền kinh tế. Việc quản lý Nhà nước về quản lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ bao gồm : - Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, xây dựng kế hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các chính sách khuyến khích chất lượng. - Nhà nước quy định chế độ, thể lệ về quản lý chất lượng, ban hành tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ. - Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ về mặt chất lượng, của các hệ thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất lượng hàng hóa…bằng việc cấp đăng kí, chứng nhận và công nhận. - Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra Nhà nước về chất lượng hàng hóa và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa, thiết lập trật tự kỉ cương trong lĩnh vực chất lượng hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng Các vấn đề cụ thể về chất lượng HH, do các doanh nghiệp tự quản lý, tự quyết định. HH lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam phải hợp pháp về mặt chất lượng, việc sản xuất và buôn bán HH (kể cả xuất, nhập khẩu) phải thực hiện những quy định về chất lượng HH của cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng HH. Dưới đây là hình ảnh về một số hàng hóa có mặt trên thị trường Việt Nam: Hình ảnh các loại hàng hóa bán trong hệ thống siêu thị MAXIMAX Hình ảnh sản phẩm rau quả nông nghiệp bán trong khu METRO Biểu đồ một số HH như thuốc, thức ăn gia súc cao su, dầu thực vật….. năm 2006-2007 Quá trình hình thành nền KTT T định hướng XHCN ở Việt Nam gắn liền với sự tác động của quá trình mở cửa ra thị trường thế giới và sự hòa nhập với các nền KTTT. Vì vậy sự giao lưu về HH dịch vụ là một đòi hỏi của nền kinh tế. Thông qua hoạt động ngoại thương HH được vận chuyển và lưu thông ra nước ngoài được gia tăng. Do đó, HH xuất khẩu (XK) cũng có sự biến đổi lớn về tất cả các mặt. Giữa HHXK và hàng nội địa đều có có những yêu cầu chất lượng giống nhau nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, kinh tế chưa phát triển, hàng tiêu thụ nội địa và hàng XK còn có sự phân biệt. Hàng XK bao giờ cũng có những đói hỏi cao hơn hàng nội địa về chất lượng và mẫu mã. Tuy vậy, nhờ việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nước ta đã tăng được sản lượng HHXK trong những năm qua, đây là một dấu hiệu khả quan phản ánh sự phát triển ngày càng cao của yếu tố HH trong nền KTTT nư
Luận văn liên quan