Đề tài Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Khái niệm về môi trường đã được thảo luận rất nhiều và từ lâu. Nhìn chung có những quan niệm về môi trường như sau: - Môi trường bao gồm các vật chất hữu cơ và vô cơ quanh sinh vật. Theo định nghĩa này thì không thể nào xác định được môi trường một cách cụ thể, vì mỗi cá thể, mỗi loài, mỗi chi vẫn có một môi trường và một quần thể, một quần xã lại có một môi trường rộng lớn hơn. - Môi trường là những gì cần thiết cho điều kiện sinh tồn của sinh vật. Theo định nghĩa này thì rất hẹp, bởi vì trong thực tế có yếu tố này là cần thiết cho loài này nhưng không cần thiết cho loài kia dù cùng sống chung một nơi, hơn nữa cũng có những yếu tố có hại hoặc không có lợi vẫn tồn tại và tác động lên cơ thể và ta không thể loại trừ nó ra khỏi môi trường tự nhiên. - Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và các thực thể của tự nhiên. . . mà ở đó, cá thể, quần thể, loài. . . có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các phản ứng thích nghi của mình. Từ định nghĩa này ta có thể phân biệt được đâu là môi trường của loài này mà không phải là môi trường của loài khác. Chẳng hạn như mặt biển là môi trường của sinh vật màng nước, song không phải là môi trường của những loài sống ở đáy sâu hàng ngàn mét và ngược lại.

doc27 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4849 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT MÔI TRƯỜNG CHỦ ĐỀ : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM NHÓM 1 – LỚP K54A Nguyễn Thị Chang Nguyễn Hoàng Duy Nguyễn Thu Hương Bùi Phương Khánh Phạm Khánh Linh Nguyễn Lê Bảo Ngọc (nhóm trưởng) Nguyễn Thị Phương Bùi Như Quỳnh Cao Thị Thúy Nguyễn Thùy Trang Mục lục: Khái quát chung Khái niệm luật môi trường Sự cần thiết của việc ra đời luật môi trường Sự phát triển của luật môi trường trên thế giới Các giai đoạn phát triển của luật môi trường ở Việt Nam Trước 1986 Bối cảnh xã hội Các văn bản pháp luật Tình trạng phát triển của luật môi trường trong giai đoạn này Ưu điểm Nhược điểm Từ 1986 đến nay Bối cảnh xã hội Các văn bản pháp luật Tình trạng phát triển của luật môi trường trong giai đoạn này Ưu điểm Nhược điểm Kiến nghị hoàn thiện Kết luận Khái quát chung 1. Khái niệm luật môi trường Khái niệm môi trường. Khái niệm về môi trường đã được thảo luận rất nhiều và từ lâu. Nhìn chung có những quan niệm về môi trường như sau: - Môi trường bao gồm các vật chất hữu cơ và vô cơ quanh sinh vật. Theo định nghĩa này thì không thể nào xác định được môi trường một cách cụ thể, vì mỗi cá thể, mỗi loài, mỗi chi vẫn có một môi trường và một quần thể, một quần xã lại có một môi trường rộng lớn hơn. - Môi trường là những gì cần thiết cho điều kiện sinh tồn của sinh vật. Theo định nghĩa này thì rất hẹp, bởi vì trong thực tế có yếu tố này là cần thiết cho loài này nhưng không cần thiết cho loài kia dù cùng sống chung một nơi, hơn nữa cũng có những yếu tố có hại hoặc không có lợi vẫn tồn tại và tác động lên cơ thể và ta không thể loại trừ nó ra khỏi môi trường tự nhiên. - Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và các thực thể của tự nhiên. . . mà ở đó, cá thể, quần thể, loài. . . có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các phản ứng thích nghi của mình. Từ định nghĩa này ta có thể phân biệt được đâu là môi trường của loài này mà không phải là môi trường của loài khác. Chẳng hạn như mặt biển là môi trường của sinh vật màng nước, song không phải là môi trường của những loài sống ở đáy sâu hàng ngàn mét và ngược lại. Đối với con người, môi trường chứa đựng nội dung rộng hơn. Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa. . . ) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật. . . ), trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Như vậy, môi trường sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật là con người mà còn là “khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người”. Môi trường sử dụng trong lĩnh vực khoa học pháp lý là một khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam định nghĩa môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”. Như vậy thì theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên hay cụ thể hơn, mối quan hệ giữa con người với nhau tạo thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường. Khái niệm Luật môi trường. Việc định nghĩa khái niệm Luật môi trường, cần phải xác định phạm vi của nó. Phạm vi của nó gắn liền với khái niệm môi trường như đã trình bày ở trên. Do nội hàm của khái niệm môi trường khá là rộng, hơn nữa khái niệm môi trường hiện nay được bao hàm tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố của môi trường, hệ sinh thái tự nhiên, các cấu trúc do con người tạo ra hay biến đổi nên phạm vi của các chế định điều chỉnh càng rộng hơn. Xuất phát từ phạm vi của luật môi trường, có thể đưa ra định nghĩa về luật môi trường như sau: “Luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của con người. ” Sự cần thiết của việc ra đời luật môi trường Sự phát triển kinh tế luôn là động lực phát triển của các quốc gia, các quốc gia sẵn sàng khai thác hết mọi nguồn tài nguyên để làm công cụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này dẫn đến hậu quả là tất cả các quốc gia phải đối mặt với sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự mất cân bằng sinh thái và những thiên tai khốc liệt của thiên nhiên. Hậu quả ấy không riêng quốc gia nào gánh chịu mà nó có sức lan tỏa trên toàn thế giới. Chính vì thế mà vấn đề bảo vệ môi trường được chú trọng hơn bao giờ hết, bảo vệ môi trường được coi là một thách thức lớn trên toàn cầu. Luật môi trường ra đời như là một biện pháp để giải quyết thách thức đó. Chỉ pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết xã hội mới có đầy đủ sức mạnh buộc các cá nhân, tổ chức phải nhận thức và tuân theo. Môi trường chỉ thực sự được bảo vệ khi có một hệ thống pháp luật thống nhất, rõ ràng, đủ sức răn đe và có sự chung tay của tất cả các quốc gia trên thế giới. Pháp luật về môi trường không chỉ dừng lại ở những bộ luật của mỗi quốc gia mà còn mở rộng khi có sự xuất hiện của các điều ước quốc tế, tạo sự ràng buộc trách nhiệm bảo vệ môi trường giữa các quốc gia với nhau. Có thể nói, sự ra đời của Luật môi trường là một hệ quả tất yếu trên con đường phát triển bền vững của nhân loại. Sự phát triển của luật môi trường trên thế giới Luật môi trường xuất hiện sớm ở các nước phát triển, nơi các thách thức môi trường trở nên quyết liệt hơn do tốc độ công nghiệp hóa, ô nhiễm công nghiệp ở các nước đó. Từ cuối thế kỉ 19 đã xuất hiện các điều ước song phương và đa phương về vấn đề môi trường. Tiếp đó, đầu thế kỉ 20 là sự ra đời một số điều ước về bảo vệ các loài động vật có giá trị thương mại; những năm 50, 60 là các điều ước về trách nhiệm quốc gia đối với tai nạn hạt nhân; cuối những năm 60 là điều ước về ô nhiễm dầu và kiểm soát ô nhiễm dầu và từ năm 1970 trở đi, với sự kiện Hội nghị Stockholm 1972 của các quốc gia phát triển, thì hàng trăm điều ước đã được kí kết. Đây được coi là một trong những sự kiện quan trọng đánh dấu sự phát triển của các chính sách về môi trường trên thế giới. Hội nghi được tổ chức từ ngày 05/06/1972 đến ngày 14/06/1972 tại Stockholm (Thụy Điển), thu hút sự tham gia của 118 quốc gia trên thế giới với chủ đề “Môi trường và con người”. Hội nghị quyết định thành lập chương trình môi trường của Liên hợp quốc viết tắt là UNEP, quyết định thành lập quỹ môi trường toàn cầu, hình thành một số nguyên tắc quan trọng gồm 26 nguyên tắc, 119 khuyến nghị và quyết định lấy ngày môi trường thế giới là ngày 05/06.  Đây được coi là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc toàn cầu hóa các vấn đề về môi trường. Tiếp theo của sự kiện này là hàng loạt các hội nghị và điều ước về môi trường đã xuất hiện, tiêu biểu : Hội nghị Rio de Janeiro 1992, Hội nghị môi trường 2002, Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu 2007, Hội nghị thượng đỉnh liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP15) 2009, Công ước về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) 1973, Công ước về bảo vệ tầng ôzôn 1985, Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC) 1992, Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) 2001,  Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982… Như vậy, vấn đề môi trường đã được các quốc gia trên thế giới ý thức rõ tầm quan trọng từ rất sớm, và cho đến nay vẫn tiếp tục được quan tâm, đưa vào chính sách phát triển chiến lược của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, luật môi trường xuất hiện chậm. Có thể nói trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam thì luật môi trường là lĩnh vực mới nhất. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của luật môi trường không chứa đựng những phân kì phức tạp như một số ngành luật khác. Quá trình phát triển của Luật môi trường được chia ra làm hai giai đoạn chính là giai đoạn trước năm 1986 và từ năm 1986 cho đến nay. Đặc điểm sự phát triển của luật môi trường tại Việt Nam qua từng giai đoạn sẽ được làm rõ trong phần II của bài tiểu luận. Các giai đoạn phát triển của luật môi trường ở Việt Nam Trước năm 1986 Bối cảnh xã hội Như chúng ta biết, sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Việt Nam đã phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra… đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Điều này đã dẫn đến đầu những năm 80, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và bị cô lập về ngoại giao. Nhân tình hình đó, các thế lực chống đối đã lợi dụng những khó khăn của Việt Nam để câu kết với nhau, chống phá ta. Ta còn rất ít bạn bè. Một số nước trước đây ủng hộ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã xa lánh ta. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các nước lớn (trừ Liên Xô và Ấn Độ) gặp nhiều vướng mắc và không giải tỏa được khiến cho nền an ninh nước ta bấp bênh khi phải đối phó với sự căng thẳng ở cả hai đầu biên giới. Trong lúc đó, những khó khăn về kinh tế lại càng chồng chất vì phải chi tiêu rất lớn cho quân sự, quốc phòng. Trước bối cảnh xã hội như vậy đã không cho phép đất nước ta chú ý nhiều đến vấn đề môi trường. Tất cả những cố gắng trong thời kỳ đó đều tập trung cho việc chiến thắng đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc. Tiếp đó sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề môi trường cũng không được chú trọng vì mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta bấy giờ là hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế và thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội đang hoành hành từ thời gian sau chiến tranh đến năm 1986, khi chính sách đổi mới được khởi xướng. Cũng trong giai đoạn này,chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước giường như không đi đôi với việc bảo vệ môi trường. Một mặt do bối cảnh xã hội, mặt khác vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường lúc đó cũng chưa biểu hiện rõ nét như các biến động xấu của thiên nhiên do sự hủy hoại môi trường chưa thể hiện ở mức cao. Sự ô nhiễm trong các đô thị và vùng nông thôn chưa đến mức báo động do số lượng ô tô, xe máy, các thiết bị, máy móc có chứa chất thải độc hại chưa được sử dụng nhiều. Phân bón, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp cũng được sử dụng ở mức hạn chế. Số lượng Nhà máy, xí nghiệp nhỏ do công nghiệp chưa phát triển… Điều này một phần dẫn đến tâm lý chủ quan chung, mọi người thiếu quan tâm đến việc bảo vệ môi trường . Hệ thống pháp luật Viêt Nam trước năm 1986 cũng chưa hoàn chỉnh. Cơ chế bao cấp với sự chi phối của hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong các quan hệ kinh tế, xã hội đã hạn chế sự phát triển của pháp luật. Ngay cả những ngành luật thiết thực nhất cho thời kỳ đó như luật kinh tế, luật ngân hàng, tài chính vẫn không phát triển. Như vậy, việc đòi hỏi cho ra một đạo luật chuyên biệt về môi trường còn khá xa lạ. Mặc dù đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh song các quy định đó cũng chỉ liên quan đến một số khía cạnh của bảo vệ môi trường chứ chưa nhằm trực tiếp vào việc bảo vệ các yếu tố môi trường. Điều này cho thấy vấn đề môi trường chỉ là phần thứ yếu, phái sinh trong hệ thống pháp luật lúc đó. Hơn nữa do bị cô lập về ngoại giao nên quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới càng trở nên khó khăn. Vì vậy việc hợp tác quốc tế rất hạn chế. Những quy định của pháp luật môi trường ở giai đoạn này chỉ xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước và giới hạn trong phạm vi quốc gia, chưa có một điều ước quốc tế nào nói về bảo vệ môi trường mà Việt Nam là thành viên. Như vậy trước năm 1986, Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm thử thách. Nhân dân ta đã đạt được những thắng lợi đáng kể trong các lĩnh vưc kinh tế - xã hội và trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời chúng ta cũng gặp không ít khó khăn và yếu kém trong đường lối lãnh đạo đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới. Với bối cảnh xã hội đó, việc bảo vệ môi trường còn quá mờ nhạt và không được quan tâm. Các văn bản pháp luật Xuất phát từ các nguyên nhân trên, luật môi trường trong giai đoạn này chưa xuất hiện với tư cách là lĩnh vực riêng. Khó có thể tìm thấy văn bản pháp luật riêng nào về vấn đề môi trường nhưng chúng ta có thể thấy Nhà nước cũng đã có những ý tưởng về bảo vệ môi trường măc dù vấn đề thể chế hóa, luật hóa các ý tưởng này chưa được toàn diện. Nhà nước đã có những cố gắng nhất định được ghi nhận trong các văn bản sau: Điều đáng chú ý nhất là bảo vệ môi trường trong giai đoạn này được coi là đòi hỏi hiến định. Điều 36 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cải tạo môi trường sống” Văn bản sớm nhất có đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường là sắc lệnh số 142/SL do chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21/12/1949 quy định việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng. Sau đó lần lượt là sự xuất hiện của các văn bản điều chỉnh các vấn đề liên quan đến môi trường như: Nghị quyết 36/CP ngày 11/03/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất Chỉ thị số 07/TTg ngày 16/01/1964 về thu tiền bán khoán lâm sản và thu tiền nuôi rừng Nghị quyết số 183/CP ngày 25/09/1966 về công tác trồng cây gây rừng Chỉ thị số 127/CP ngày 24/05/1971 của Hội đồng Chính phủ về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên Pháp lệnh về bảo vệ rừng ban hành ngày 11/09/1972 Ta có thể dễ dàng nhận thấy một số đặc điểm như sau của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong giai đoạn này: + Các văn bản trong thời kỳ này chủ yếu được ban hành dưới dạng văn bản dưới luật; + Các quy định pháp luật chỉ liên quan đến một số khía cạnh của bảo vệ môi trường xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước, nhằm đảm bảo sự kiểm soát chặt chẽ các quan hệ xã hội của Nhà nước chứ chưa trực tiếp nhắm vào mục tiêu bảo vệ các thành tố của môi trường hay nói cách khác, khía cạnh môi trường chỉ mang tính chất phái sinh xuất phát từ các quan hệ xã hội được điều chỉnh. Từ đó, cách tiếp cận mang tính môi trường như các quan điểm phổ biến trên bình diện quốc tế chưa được thể hiện; + Nội dung các quy định nói chung còn lạc hậu, không những chưa phản ánh và đáp ứng được các đòi hỏi khách quan về hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường mà còn chưa tiệm cận với các quan điểm hiện đại được thể hiện trong các công ước quốc tế. Tình trạng phát triển của luật môi trường trong giai đoạn này Ưu điểm Nhà nước đã có những ý tưởng về việc bảo vệ môi trường và được thể chế hóa các ý tưởng này chỉ được thể hiện trong các sắc lệnh,nghị quyết. Ví dụ như; Sắc lệnh số 142 / SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 21/12/1949 quy định việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng, nghị quyết 36/CP ngày 13/06/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lí,bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất ; chỉ thị số 127/CP ngày 24/05/1961 về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên. . . Điều đó thể hiện sự quan tâm một phần nào đó của nhà nước tới vấn đề môi trường ở Việt Nam. Nhược điểm + Các quy định của pháp luật chỉ liên quan đến một số khía cạnh của bảo vệ môi trường xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước. Các quy định này nhằm trực tiếp vào việc bảo vệ các yếu tố môi trường. + Các quy định về môi trường hoặc liên quan đến môi trường nằm rải rác trong các văn bản pháp luật đơn hành được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau với mục tiêu là đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. + Nội dung của pháp luật môi trường ở giai đoạn này chưa phản ánh và đáp ứng những đòi hỏi khách quan hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường. Tình trạng kém phát triển của pháp luật môi trường trong giai đoạn này, sự thiếu vắng của luật môi trường trong giai đoạn trước năm 1986 do các nguyên nhân sau: + Hoàn cảnh lịch sử của đất nước trong thời kì này không cho phép nước ta chú ý đến việc bảo vệ môi trường do việc tập trung cho việc chiến thắng đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc. Sau khi thống nhất đất nước, vấn đề môi trường cũng bị đẩy lùi do việc Đảng và Nhà nước ta tập trung cho việc hàn gắn vết thương sau chiến tranh, phát triển kinh tế và thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế. + Trong giai đoạn trước 1986, các biến động xấu của thiên nhiên do sự hủy hoại môi trường chưa thể hiện ở mức độ cao. Sự ô nhiễm trong các đô thị và vùng nông thôn chưa đến mức báo động do số lượng ô tô, xe máy, các thiết bị, máy móc có chất thải chất dioxin chưa được sử dụng nhiều. Phân bón, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp cũng được sử dụng một cách hạn chế. + Hệ thống pháp luật Việt Nam trước năm 1986 chưa phải là hệ thống pháp luật hoàn thiện. Cơ chế bao cấp với sự ngự trị của hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong các quan hệ kinh tế, xã hội đã hạn chế sự phát triển của pháp luật. Từ năm 1986 đến nay Bối cảnh xã hội Khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng việc xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp và chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng XHCN. Bên cạnh việc mang lại những kết quả tốt đẹp, kinh tế thị trường cũng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực, trong đó có suy thoái môi trường. Vì chạy theo lợi nhuận, làm giàu bằng mọi giá nên các nguồn tài nguyên của đất nước bị khai thác bừa bãi. Nạn dân chúng đua nhau đi đào vàng, khai thác trầm, gỗ quý, đá quý diễn ra ở quy mô lớn đã làm cho môi trường ở nhiều nơi trở nên suy thoái nghiêm trọng. Quá trình đô thị hóa dưới tác động của kinh tế thị trường cũng làm tăng sức ép môi trường ở các thành phố và thị xã. Số lượng máy móc thiết bị, ô tô, xe máy tăng lên gấp nhiều lần so với 10 năm trước đó, lượng khí thải từ các máy móc thiết bị này đã làm cho môi trường, nhất là môi trường đô thị bị ô nhiễm. Sức ép của vấn đề ô nhiễm môi trường tăng lên cùng với việc sử dụng rộng rãi các hóa chất trừ sâu bệnh, các chất kích thích tăng trọng. Nhiều vụ ngộ độc thức ăn đã liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi. Những hậu quả của việc chiến tranh và sự phá hoại của con người đối với rừng bắt đầu khởi động sự trả thù. Những cơn lũ quét diễn ra liên tục ở những nơi rừng bị phá trụi là bằng chứng cho sự trả thù. Tất cả những nguyên nhân trên đã làm cho vấn đề bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn của xã hội. Kể từ 1986, đặc biệt là những năm đầu của thập kỉ 90, bảo vệ môi trường trở thành nguyên tắc hiến định. Luật môi trường được coi là một lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các văn bản pháp luật Kể từ năm 1986, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 90, bảo vệ môi trường đã trở thành nguyên tắc hiến định. Luật môi trường được coi là một lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngay từ năm 1986, Chiến lược bảo tồn quốc gia được soạn thảo và 5 năm sau, vào năm 1991 Việt Nam đã thông qua Kế hoạch Hành động Quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững (NPESD), ngay trước khi Hội nghị Rio diễn ra. Bốn năm tiếp theo, hai kế hoạch được soạn thảo, đó là Kế hoạch Hành động Môi trường Quốc gia, đón trước các yêu cầu bắt buộc của Ngân hàng Thế giới (WB
Luận văn liên quan