Đề tài Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập nhập quốc tế và triển khai thực hiện Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005, ngày 31/12/2005, Tổng cục Hải quan đã ban hành Quyết định số 2148/QĐ-TCHQ về Quy chế áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thương mại, có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2006. Qua ba năm triển khai thực hiện, ngành Hải quan đã có những bước chuyển biến quan trọng trong việc tạo thuận lợi thương mại đồng thời đảm bảo kiểm soát việc tuân thủ pháp luật hải quan. Những kết quả này đã được lãnh đạo Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá và ghi nhận. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, vướng mắc; đặc biệt là tình hình lợi dụng cơ chế tạo thuận lợi để buôn lậu, trốn thuế và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan. đặt ra yêu cầu tăng cường hơn nữa năng lực kiểm tra, kiểm soát của ngành Hải quan thông qua việc xây dựng, phát triển phương pháp quản lý hải quan hiện đại - phương pháp quản lý rủi ro. Trong những năm gần đây, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại có nhiều diễn biến phức tạp, đa dạng về thành phần, phương thức, thủ đoạn. Các đối tượng buôn lậu thường có sự móc nối, câu kết, hoạt động có tổ chức, ổ nhóm, thành lập các đường dây giữa các đối tượng trong nước và nước ngoài. Phạm vi hoạt động và mức độ hậu quả do các vi phạm gây nên có xu hướng gia tăng trên tất cả các địa bàn trong cả nước, làm ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển kinh tế của đất nước và đời sống của nhân dân. Trước tình hình đó, việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Để đạt được điều đó, ngành Hải quan cần tổ chức tốt công tác quản lý rủi ro làm nền tảng cho hoạt động nghiệp vụ hải quan. Đây là một trong những công tác quan trọng hàng đầu cần được nghiên cứu, phát triển trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù là một công tác nghiệp vụ cơ bản và rất quan trọng, nhưng thực tế cho thấy, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức hải quan ở các cấp, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng cũng như cách thức tổ chức xây dựng, quản lý, ứng dụng quản lý rủi ro; dẫn đến công tác này chỉ được tiến hành một cách hình thức, thậm chí nhiều nơi chưa thực hiện. Khả năng phân tích, đánh giá rủi ro của đại bộ phận công chức hải quan còn rất hạn chế; nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong một số khâu, lĩnh vực nghiệp chưa được nghiên cứu, xem xét thấu đáo; dẫn đến tình trạng nhiều rủi ro chưa được xem xét và kiểm soát kịp thời. Tất cả các hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực quản lý của ngành Hải quan. Bên cạnh những hạn chế về tổ chức hoạt động thực tiễn thì vấn đề lý luận về công tác quản lý rủi ro cũng cần phải được xem xét lại và giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tiễn công tác hiện nay của ngành Hải quan. Đặc biệt cần nghiên cứu, xây dựng thành hệ thống lý luận nghiệp vụ nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất cho công tác này. Xuất phát từ những trình bày ở trên, có thể nói rằng việc lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam” là cấp thiết, có tính thời sự, phù hợp với thực tiễn quá trình áp dụng quản lý rủi ro, cũng như tiến trình cải cách, phát triển, hiện đại hoá của ngành Hải quan hiện nay.

doc89 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài Để đáp ứng yêu cầu hội nhập nhập quốc tế và triển khai thực hiện Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005, ngày 31/12/2005, Tổng cục Hải quan đã ban hành Quyết định số 2148/QĐ-TCHQ về Quy chế áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thương mại, có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2006. Qua ba năm triển khai thực hiện, ngành Hải quan đã có những bước chuyển biến quan trọng trong việc tạo thuận lợi thương mại đồng thời đảm bảo kiểm soát việc tuân thủ pháp luật hải quan. Những kết quả này đã được lãnh đạo Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá và ghi nhận. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, vướng mắc; đặc biệt là tình hình lợi dụng cơ chế tạo thuận lợi để buôn lậu, trốn thuế và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan... đặt ra yêu cầu tăng cường hơn nữa năng lực kiểm tra, kiểm soát của ngành Hải quan thông qua việc xây dựng, phát triển phương pháp quản lý hải quan hiện đại - phương pháp quản lý rủi ro. Trong những năm gần đây, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại có nhiều diễn biến phức tạp, đa dạng về thành phần, phương thức, thủ đoạn. Các đối tượng buôn lậu thường có sự móc nối, câu kết, hoạt động có tổ chức, ổ nhóm, thành lập các đường dây giữa các đối tượng trong nước và nước ngoài. Phạm vi hoạt động và mức độ hậu quả do các vi phạm gây nên có xu hướng gia tăng trên tất cả các địa bàn trong cả nước, làm ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển kinh tế của đất nước và đời sống của nhân dân. Trước tình hình đó, việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Để đạt được điều đó, ngành Hải quan cần tổ chức tốt công tác quản lý rủi ro làm nền tảng cho hoạt động nghiệp vụ hải quan. Đây là một trong những công tác quan trọng hàng đầu cần được nghiên cứu, phát triển trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù là một công tác nghiệp vụ cơ bản và rất quan trọng, nhưng thực tế cho thấy, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức hải quan ở các cấp, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng cũng như cách thức tổ chức xây dựng, quản lý, ứng dụng quản lý rủi ro; dẫn đến công tác này chỉ được tiến hành một cách hình thức, thậm chí nhiều nơi chưa thực hiện. Khả năng phân tích, đánh giá rủi ro của đại bộ phận công chức hải quan còn rất hạn chế; nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong một số khâu, lĩnh vực nghiệp chưa được nghiên cứu, xem xét thấu đáo; dẫn đến tình trạng nhiều rủi ro chưa được xem xét và kiểm soát kịp thời. Tất cả các hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực quản lý của ngành Hải quan. Bên cạnh những hạn chế về tổ chức hoạt động thực tiễn thì vấn đề lý luận về công tác quản lý rủi ro cũng cần phải được xem xét lại và giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tiễn công tác hiện nay của ngành Hải quan. Đặc biệt cần nghiên cứu, xây dựng thành hệ thống lý luận nghiệp vụ nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất cho công tác này. Xuất phát từ những trình bày ở trên, có thể nói rằng việc lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan Việt Nam” là cấp thiết, có tính thời sự, phù hợp với thực tiễn quá trình áp dụng quản lý rủi ro, cũng như tiến trình cải cách, phát triển, hiện đại hoá của ngành Hải quan hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản lý rủi ro, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. - Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau đây: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận về rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. + Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro và công tác quản lý rủi ro; mối quan hệ của công tác này với các hoạt động nghiệp vụ khác. + Phân tích và dự báo tình hình rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan; tổng hợp kết quả nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ của ngành Hải quan. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu một số đối tượng sau đây: + Lý luận và kinh nghiệm xây dựng và áp dụng quản lý rủi ro của Hải quan một số quốc gia trên thế giới; + Quá trình áp dụng quản lý rủi ro của Hải quan Việt Nam; + Thực trạng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. - Phạm vi nghiên cúu: trong phạm vi toàn quốc gắn với các hoạt động nghiệp vụ hải quan; thời gian nghiên cứu từ năm 2006 đến 2009. 4. Bố cục của đề tài: Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu, nội dung luận văn được phân bổ thành 3 chương: Chương 1: Quản lý rủi ro trong tiến trình hiện đại hóa Hải quan. Chương 2: Thực trạng thực hiện quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả công tác của Hải quan Việt Nam CHƯƠNG I: QUẢN LÝ RỦI RO TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA HẢI QUAN 1.1. Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan Khái quát chung về quản lý rủi ro 1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro Theo tài liệu hướng dẫn “ISO/IEC 73:2002, Quản lý rủi ro - các khái niệm và hướng dẫn sử dụng tiêu chuẩn” của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO thì rủi ro là sự kết hợp của xác suất xảy ra của một sự kiện và hậu quả của sự kiện đó. Rủi ro xảy ra có thể đem lại lợi ích nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng, đem lại các kết quả xấu, không mong đợi. Do đó, để nhận biết các rủi ro và có thể giảm thiểu các tác động tiêu cực của rủi ro đến từng hoạt động của tổ chức nói riêng, và toàn thể tổ chức nói chung, ta phải thực hiện quản lý rủi ro hoặc cũng có tài liệu gọi là quản trị rủi ro. Quản lý rủi ro là việc tăng cường nghiên cứu, đưa ra các biện pháp đối với cả hai mặt tích cực cũng như tiêu cực của rủi ro. Quản lý rủi ro là quy trình mà các tổ chức áp dụng bao gồm các bước nhằm xác định, xử lý và điều chỉnh các rủi ro ảnh hưởng đến các hoạt động của tổ chức. Việc xác định và đưa ra các biện pháp xử lý rủi ro là tâm điểm của hoạt động quản lý rủi ro. Thực hiện quản lý rủi ro sẽ giúp tổ chức đánh giá được khả năng tác động tích cực và tiêu cực của rủi ro đến tổ chức, giúp tăng các tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực cũng như những tác động không mong muốn đến toàn thể hoạt động của tổ chức. Nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung đi sâu phân tích tìm ra quy luật của những nguy cơ, bất trắc và thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực vận chuyển hàng hải và vận dụng những kết quả nghiên cứu này vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Sau này, việc nghiên cứu về rủi ro còn được phát triển ra các lĩnh vực khác như ngân hàng, kinh doanh, quản lý…Hiện nay, việc nghiên cứu quản lý rủi ro thực sự trở thành môn khoa học ứng dụng không chỉ trong các khu vực kinh tế tư nhân mà còn được đưa vào áp dụng trong lĩnh vực quản lý của cơ quan nhà nước như hải quan, thuế, ngân hàng ....Rủi ro có thể được hiểu là sự kiện không may xảy ra luôn gắn liền với hoạt động và môi trường sống của con người. Nội hàm của rủi ro bao gồm tổng hợp các yếu tố, các mối liên hệ có tính chất tương đối ổn định, các quy luật về tần suất và hậu quả của rủi ro. Việc nghiên cứu nội hàm của rủi ro giúp cho việc làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân, điều kiện và đối tượng làm nảy sinh rủi ro. 1.1.1.2. Nội dung thực hiện quản lý rủi ro Các rủi ro tác động đến hoạt động của các tổ chức có thể là kết quả từ rất nhiều yếu tố gồm các yếu tố bên ngoài cũng như yếu tố bên trong từ nội bộ của tổ chức. Do đó, khi đánh giá rủi ro, xác định các yếu tố tác động đến rủi ro cần phải phân tích tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài Việc thực hiện quản lý rủi ro được thực hiện theo một quy trình cụ thể, trong đó, đánh giá rủi ro được định nghĩa là một quy trình tổng thể bao gồm các hoạt động phân tích rủi ro và đánh giá rủi ro. Phân tích rủi ro bao gồm việc xác định rủi ro, mô tả rủi ro và dự đoán rủi ro. Xác định rủi ro được thực hiện nhằm xác định tất cả các rủi ro có thể nhìn thấy được cũng như các rủi ro tiềm ẩn, có thể ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động của tổ chức. Mô tả rủi ro là việc trình bày đầy đủ về tất cả các mặt, các nội dung của các rủi ro đã được xác định theo cấu trúc cụ thể, ví dụ chúng ta có thể sử dụng mẫu bảng để trình bày, mô tả các rủi ro đã xác định. Các mô tả rủi ro này sẽ được sử dụng trong quá trình đánh giá rủi ro được cụ thể hơn. Mô tả rủi ro có thể bao gồm các nội dung về tên rủi ro, quy mô rủi ro, đặc tính tự nhiên của rủi ro, gợi ý các giải pháp để giảm thiểu rủi ro…Dự đoán rủi ro là việc dự đoán quy mô rủi ro, hậu quả có thể xảy ra của rủi ro, gồm cả các tác động tích cực và các tác động tiêu cực, và dự đoán mức độ tác động của rủi ro cao, trung bình, hay thấp. Sau khi hoàn thành việc phân tích rủi ro cần thiết phải thực hiện đánh giá rủi ro. Đánh giá rủi ro là việc thực hiện so sánh các rủi ro đã dự đoán với các điều kiện tác động rủi ro như mối quan hệ chi phí lợi nhuận, các yêu cầu pháp lý, các yếu tố kinh tế và xã hội... Kết quả đánh giá rủi ro sẽ được sử dụng để đưa ra các quyết định về mức độ ưu tiên của rủi ro và lựa chọn ra rủi ro nào có thể chấp nhận được, rủi ro nào không thể chấp nhận, và phải có biện pháp xử lý rủi ro. Các kết quả phân tích rủi ro, đánh giá rủi ro phải được báo cáo rõ ràng, và với mỗi đối tượng sử dụng báo cáo khác nhau thì các thông tin về rủi ro sẽ được sử dụng khác nhau. Và từ đó, người quản lý dựa trên các thông tin trên để đưa ra các quyết định xử lý rủi ro phù hợp. Xử lý rủi ro là quy trình chọn lựa và thực hiện các biện pháp để giảm thiểu các tác động tiêu cực của rủi ro, cũng như đưa ra các định hướng giảm thiểu rủi ro trong tương lai như phòng tránh rủi ro, chuyển thể rủi ro…[19, trang 17] Bước cuối cùng của quy trình quản lý rủi ro chính là việc thực hiện theo dõi rủi ro, đánh giá quá trình thực hiện quản lý rủi ro và thực hiện điều chỉnh. Thực hiện quản lý rủi ro hiệu quả yêu cầu phải thực hiện theo dõi, và đánh giá kết quả đã thực hiện được để đảm bảo rằng các rủi ro là được xác định chính xác, được đánh giá và được kiểm soát. Các chính sách kiểm tra, cũng như các tiêu chuẩn áp dụng xử lý rủi ro phải được cập nhật thường xuyên, bởi vì bất kỳ sự thay đổi nào trong nội bộ tổ chức, cũng như các yếu tố bên ngoài đều tác động làm thay đổi các rủi ro. Ngoại diện của rủi ro là các hiện tượng, dấu hiệu biểu hiện bên ngoài của rủi ro. Mỗi rủi ro bao giờ cũng được biểu hiện ra bên ngoài bằng các đặc điểm đặc trưng thông qua các hiện tượng, dấu vết… Việc nghiên cứu ngoại diện rủi ro giúp cho việc nhận biết rủi ro và phân biệt giữa các rủi ro. Nghiên cứu về rủi ro, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những thuộc tính nổi bật của rủi ro như sau: Thứ nhất, rủi ro là nguy cơ tiềm ẩn không mang tính chắc chắn. Đó là một sự việc, một hành động hoặc một hiện tượng… có thể xảy ra và gây ra những thiệt hại tuỳ thuộc vào các yếu tố làm nảy sinh, tác động đến nó; Thứ hai, rủi ro được cấu thành bởi hai yếu tố: tần suất xuất hiện rủi ro và hậu quả của nó. Việc đánh giá rủi ro được dựa trên mức độ của hai yếu tố này để xác định mức độ nghiêm trọng của rủi ro; hay nói cách khác rủi ro có thể được đo lường bằng kết quả phân tích về tần suất và hậu quả của rủi ro. Thứ ba, rủi ro có tính chất động, luôn thay đổi theo môi trường và các yếu tố tác động liên quan. Để quản lý rủi ro, chúng ta phải thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin đầy đủ về rủi ro 1.1.2. Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan 1.1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro Trong hoạt động hải quan, “rủi ro là nguy cơ tiềm ẩn của việc không tuân thủ pháp luật hải quan, Quản lý rủi ro là việc áp dụng các quy trình được thiết kế để giảm thiểu các rủi ro trên” (trích dẫn theo định nghĩa tại Phụ lục tổng quát - Chương 6 - hướng dẫn Công ước KYOTO sửa đổi năm 1999). Nguy cơ không tuân thủ pháp luật hải quan có thể đến từ trong nội bộ ngành Hải quan (rủi ro bên trong). Những rủi ro này thường là những cản trở tạo thuận lợi thương mại. Chúng có nguồn gốc chủ yếu từ hệ thống pháp luật, quy trình, thủ tục không phù hợp, cứng nhắc của cơ quan hải quan hoặc nảy sinh từ những bất cẩn, thiếu trách nhiệm hoặc không liêm chính của công chức thừa hành. Những rủi ro này cản trở rất lớn đến mục tiêu của cơ quan hải quan, nhưng thường thì nó ít được quan tâm hoặc có quan tâm nhưng không đúng mức. Loại nguy cơ thứ hai có nguồn gốc từ các đối tượng (có liên quan) ngoài ngành Hải quan (rủi ro bên ngoài). Các đối tượng thường được xem xét bao gồm các tổ chức xã hội, các cơ quan, đơn vị thuộc các bộ ngành có liên quan, các tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan hoạt động hải quan… Đối tượng là tổ chức cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến việc tham gia hoạt động hải quan được xác định là đối tượng chính của công tác hồ sơ quản lý rủi ro. Khái niệm về quản lý rủi ro Hải quan EU: “Rủi ro có nghĩa là khả năng một điều gì đó sẽ xảy ra, ngăn chặn việc áp dụng các biện pháp xử lý của cộng đồng hoặc của quốc gia liên quan đến đối xử hàng hóa của Hải quan”. Để giảm thiểu việc xảy ra các rủi ro, cơ quan Hải quan có thể sử dụng quản lý rủi ro như một kỹ thuật để đưa ra các ưu tiên hiệu quả và phân bố hiệu quả hơn các nguồn lực cần thiết cho việc duy trì sự cân bằng giữa kiểm soát và tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp. Vì vậy việc quản lý rủi ro có thể được định nghĩa như là một kỹ thuật để xác định có hệ thống và thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để giới hạn khả năng rủi ro xảy ra. Các chiến lược quốc tế và quốc gia có thể được thực hiện hiệu quả bằng cách thu thập dữ liệu, thông tin, phân tích dữ liệu, và đánh giá rủi ro, mô tả hành động và theo dõi các kết quả đầu ra. 1.1.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan Đối với các cơ quan Hải quan, luôn có thành phần rủi ro trong kiểm soát và thuận lợi hoá lưu thông hàng hóa. Mức độ kiểm soát nhằm đảm bảo sự tuân thủ của doanh nghiệp đối với luật và các quy định mà Hải quan có trách nhiệm thực thi phải phù hợp với mức độ đánh giá rủi ro. Trong các kỹ thuật kiểm soát hải hải quan hiện đại, quy trình quản lý rủi ro là một phần rất quan trọng. Nó giúp xác định những lĩnh vực nào tiềm ẩn rủi ro, và hỗ trợ cho các quyết định quản lý, phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả. Trong quản lý rủi ro, cần phải giữ cân bằng giữa chi phí và lợi ích, rõ ràng sẽ không có hiệu quả nếu xử lý bình đẳng tất cả các rủi ro. Cần có các tiêu chuẩn để quyết định cái gì tạo nên một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được hoặc không chấp nhận được. Để quản lý rủi ro hiệu quả, cần có các công cụ phù hợp và phải có cán bộ chuyên nghiệp. Đây chính là nhu cầu về một hệ thống thông tin thực sự, để có thể xử lý nhanh các nghiệp vụ hảI quan trong điều kiện khối lượng thương mại quốc tế ngày càng gia tăng và phức tạp như hiện nay. Quản lý rủi ro không được coi như là một qui trình tĩnh mà đó là một quy trình tương tác trong đó thông tin liên tục được cập nhật, phân tích, đưa ra những hướng dẫn về biện pháp xử lý rủi ro và theo dõi, đánh giá hiệu quả của những biện pháp này, và có những phản hồi, để từ đó cơ quan Hải quan có thể có những điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro. Quá trình quản lý rủi ro được thể hiện theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan Bối cảnh chung Theo dõi đánh giá lại, thực hiện các biện pháp tuân thủ Xác định rủi ro Phân tích rủi ro Đánh giá rủi ro, xác định rủi ro ưu tiên Xử lý rủi ro Mỗi bước của quy trình quản lý rủi ro sẽ được xem xét với các mục tiêu chiến lược để đảm bảo sự gắn kết với những triển khai thực hiện các mục tiêu này. Trong đó: - Bối cảnh chung là môi trường mà quy trình quản lý rủi ro được thực hiện. Một loạt các yếu tố như nguồn lực, các mục tiêu chính trị và pháp luật và các khía cạnh xã hội đều ảnh hưởng đến bối cảnh chung, từ đó ảnh hưởng đến quy trình quản lý rủi ro. Ngày nay các cơ quan hải quan được yêu cầu tạo thuận lợi cho thương mại trong khi đó vẫn đảm bảo rằng việc lưu thông quốc tế đối với hàng hóa, phương tiện vận tải, hành lý và các hàng hóa khác được kiểm soát hợp lý. Cơ quan Hải quan phải xác định các mức độ rủi ro trong bối cảnh các ưu tiên trong nước và quốc tế. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm thực hiện các quy định của cộng đồng liên quan đến thương mại quốc tế, không chỉ phục vụ các mục đích thu thuế hay thương mại mà còn phục vụ các mục đích môi trường, chống bán phá giá, bảo vệ người tiêu dùng, văn hóa và nông nghiệp. Những trách nhiệm này là đặc điểm chính được các cơ quan Hải quan phải đưa vào xem xét, nghiên cứu trong bối cảnh chung. - Xác định rủi ro trong lĩnh vực hải quan là việc thực hiện trả lời các câu hỏi cái gì, tại sao và làm như thế nào mà các rủi ro xảy ra. Đây sẽ là cơ sở dữ liệu cho việc phân tích rủi ro tiếp theo. Tại bước này thông tin đóng vai trò sống còn. Tất cả các thông tin có sẵn đều phải được kiểm tra như các nguồn dữ liệu, các thông tin về rủi ro tiềm năng…và phảI được đánh giá về mức độ chính xác, khi cần thiết có thể được thông báo tới các đơn vị tác nghiệp. Các thông tin này có thể rất giá trị đối với các đơn vị lập pháp để giúp họ xem xét các thay đổi pháp luật. Các nguồn thông tin phục vụ thành phần này có thể là các luồng thương mại, các tờ khai, các giao dịch thanh toán đúng hạn/ nợ ghi trên hồ sơ và các văn bản pháp luật mới hoặc được sửa đổi. Kinh nghiệm của các cán bộ tác nghiệp cũng được coi là nguồn thông tin rất quan trọng. Bước này yêu cầu phải có sự mô tả rất sâu về quy trình kiểm soát hải quan hiện tại. - Bước phân tích rủi ro trong quy trình quản lý rủi ro có thể rất phức tạp. Việc sử dụng các dữ liệu rủi ro, đánh giá rủi ro trong từng bối cảnh cần phải được thực hiện. Có hai cách để nhận biết được các rủi ro đó là bằng cách phân tích các rủi ro đã được chứng minh và phân tích các rủi ro tiềm ẩn. Các rủi ro đã được chứng minh là các sự thật lịch sử, một vụ việc đã xảy ra và tổ chức đã có hồ sơ về vụ việc và những thông tin liên quan đến vụ việc đó. Các rủi ro tiềm ẩn là những rủi ro chưa được phát giác nhưng lại bị nghi ngờ, ví dụ sự phát triển của một mặt hàng mới đã được đăng ký bản quyền có thể là mục tiêu của các doanh nghiệp khác khi họ muốn vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của người đó. Những rủi ro này cũng cần được phân tích trên cơ sở các dữ liệu hiện có và cần phải đánh giá khả năng và hậu quả của những rủi ro đó. Phân tích rủi ro xét về mặt khả năng xảy ra rủi ro và hậu quả có thể xảy ra. Phân tích rủi ro cần phải cân nhắc một sự kiện sẽ xảy ra như thế nào và nếu như nó xảy ra thì hậu quả có thể xảy ra sẽ là gì, và mức độ của những hậu quả đó. Kết hợp những thành tố này sẽ đưa ra được mức độ rủi ro, là kết quả của việc phân tích rủi ro. - Dựa trên kết quả phân tích rủi ro, cơ quan Hải quan phải thực hiện đánh giá rủi ro, đưa ra mức độ rủi ro, phân loại rủi ro có thể chấp nhận được và không thể chấp nhận được để có thể đưa ra các biện pháp xử lý rủi ro phù hợp. Việc phân cấp mức độ rủi ro tùy theo quan điểm quản lý của từng cơ quan Hải quan mà có nhiều cách phân cấp khác nhau. Phổ biến là cách đánh giá mức độ rủi ro cao, trung bình và thấp. Mặc dù phổ biến việc xếp loại rủi ro theo 3 cấp, vẫn có thể xác định rủi ro chỉ theo 2 cấp độ (cao và thấp) hoặc có thể xếp rủi ro theo nhiều hơn 3 cấp độ, có thể từ 1 đến 100. Kết quả của hoạt động này trong quy trình quản lý rủi ro chính là một thang điểm đánh giá mức độ rủi ro, đvà là cơ sở để đưa ra những hành động xử lý cụ thể trong tương lai. Rủi ro cao có thể gia tăng và có thể có ảnh hưởng nghiêm trọng. Các hành động ứng phó với mức độ rủi ro cao phải rõ ràng đối với các cán bộ quản lý và phải được thống nhất trong các kế hoạch kiểm soát Hải quan. Mức độ rủi ro trung bình ít có khả năng gia tăng và có ảnh hưởng đỡ nghiêm trọng hơn. Mức độ rủi ro thấp là mức độ rủi ro được chấp nhận và có thể được đánh giá bằng các chuẩn mực hoặc các thủ tục thường lệ hoặc thậm chí không cần có các hành động xử lý. - Khi thực hiện xử lý rủi ro