Đề tài Quản lý tập thể quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam

Quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan là vấn đề đã bắt đầu phát triển trên thế giới từ 200 năm trước. Đối với Việt Nam, đây là một khái niệm còn khá mới mẻ và phức tạp. Chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào của tác giả trong nước được công bố để làm tài liệu nghiên cứu và áp dụng trên thực tế. Số lượng tài liệu dịch cũng rất hạn chế và không được phát hành rộng rãi. Có thể nói, quản lý tập thể còn hoàn toàn lạ lẫm với phần đông người dân cũng như một phần các luật gia Việt Nam. Mặc dù, tại Việt Nam, những kiến thức về quản lý tập thể vẫn còn khá xa lạ nhưng quản lý tập thể đang ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những cá thể sáng tạo và những người sở hữu quyền có liên quan đến sáng tạo đó. Sự phát triển của công nghệ mới, Internet và các sản phẩm truyền thông đa phương tiện đã tác động mạnh mẽ đến việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan. Các tác phẩm được truyền đạt với rất nhiều cách thức đa dạng, được sử dụng ở bất cứ thời điểm và không gian nào, khiến vi phạm bản quyền có điều kiện phát triển. Việc quản lý sao cho quyền tác giả, quyền liên quan được tôn trọng, đồng thời quyền của người sử dụng cũng được đảm bảo, theo cách truyền thống, hầu như là không thể. Quản lý tập thể là một công cụ mới và hữu dụng có thể giúp giải quyết hiệu quả vấn đề này. Bên cạnh tầm quan trọng tự thân của quản lý tập thể, bối cảnh hội nhập cũng khiến việc nghiên cứu tìm hiểu về quản lý tập thể trở nên cấp thiết. Khi tham gia vào WTO, Việt Nam phải hội đủ các tiêu chuẩn về khung pháp lý cơ bản để kịp thích ứng với sân chơi quốc tế. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 đáp ứng tiêu chuẩn đó vì có điều khoản quy định về quản lý tập thể, nhưng những điều khoản này rất chung chung, mơ hồ và không có hướng dẫn cụ thể nào để thực hiện. Nay, nhu cầu không chỉ dừng lại ở việc có khung pháp lý mà cần phải có nhiều nghiên cứu sâu rộng để triển khai quản lý tập thể trên thực tế. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, người sử dụng của một quốc gia có nhu cầu sử dụng tác phẩm của nhiều quốc gia khác, các tổ chức quản lý tập thể nước ngoài đã bắt đầu có những bước tiếp xúc với các tổ chức quản lý tập thể trong nước, do đó, kiến thức vững chắc về vấn đề này là hành trang không thể thiếu cho các tổ chức quản lý tập thể trong nước nói riêng, và cho tất cả những ai kinh doanh trên thị trường văn hóa phẩm tại Việt Nam nói chung. Quản lý tập thể có thể áp dụng trên nhiều lĩnh vực. Trong phạm vi đề tài của mình, nhóm tác giả chọn tìm hiểu về quản lý tập thể quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc. Nhóm tác giả nhận định, hiện nay, đây là đối tượng đang bị xâm phạm bất hợp pháp với số lượng và mức độ lớn nhất, kể cả tác phẩm âm nhạc trong và ngoài nước. Do tính chất dễ truyền đạt, phát tán của tác phẩm âm nhạc, quản lý tập thể quyền trong lĩnh vực này cũng rất đặc trưng và phát triển trên thế giới. Chọn nghiên cứu một mảng then chốt sẽ giúp đề tài tập trung, chất lượng hơn, đồng thời 2 vẫn bảo đảm nêu ra được những đặc điểm cơ bản của quản lý tập thể để làm cơ sở áp dụng trên những lĩnh vực khác.

pdf50 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý tập thể quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài Quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan là vấn đề đã bắt đầu phát triển trên thế giới từ 200 năm trước. Đối với Việt Nam, đây là một khái niệm còn khá mới mẻ và phức tạp. Chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào của tác giả trong nước được công bố để làm tài liệu nghiên cứu và áp dụng trên thực tế. Số lượng tài liệu dịch cũng rất hạn chế và không được phát hành rộng rãi. Có thể nói, quản lý tập thể còn hoàn toàn lạ lẫm với phần đông người dân cũng như một phần các luật gia Việt Nam. Mặc dù, tại Việt Nam, những kiến thức về quản lý tập thể vẫn còn khá xa lạ nhưng quản lý tập thể đang ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những cá thể sáng tạo và những người sở hữu quyền có liên quan đến sáng tạo đó. Sự phát triển của công nghệ mới, Internet và các sản phẩm truyền thông đa phương tiện đã tác động mạnh mẽ đến việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan. Các tác phẩm được truyền đạt với rất nhiều cách thức đa dạng, được sử dụng ở bất cứ thời điểm và không gian nào, khiến vi phạm bản quyền có điều kiện phát triển. Việc quản lý sao cho quyền tác giả, quyền liên quan được tôn trọng, đồng thời quyền của người sử dụng cũng được đảm bảo, theo cách truyền thống, hầu như là không thể. Quản lý tập thể là một công cụ mới và hữu dụng có thể giúp giải quyết hiệu quả vấn đề này. Bên cạnh tầm quan trọng tự thân của quản lý tập thể, bối cảnh hội nhập cũng khiến việc nghiên cứu tìm hiểu về quản lý tập thể trở nên cấp thiết. Khi tham gia vào WTO, Việt Nam phải hội đủ các tiêu chuẩn về khung pháp lý cơ bản để kịp thích ứng với sân chơi quốc tế. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 đáp ứng tiêu chuẩn đó vì có điều khoản quy định về quản lý tập thể, nhưng những điều khoản này rất chung chung, mơ hồ và không có hướng dẫn cụ thể nào để thực hiện. Nay, nhu cầu không chỉ dừng lại ở việc có khung pháp lý mà cần phải có nhiều nghiên cứu sâu rộng để triển khai quản lý tập thể trên thực tế. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, người sử dụng của một quốc gia có nhu cầu sử dụng tác phẩm của nhiều quốc gia khác, các tổ chức quản lý tập thể nước ngoài đã bắt đầu có những bước tiếp xúc với các tổ chức quản lý tập thể trong nước, do đó, kiến thức vững chắc về vấn đề này là hành trang không thể thiếu cho các tổ chức quản lý tập thể trong nước nói riêng, và cho tất cả những ai kinh doanh trên thị trường văn hóa phẩm tại Việt Nam nói chung. Quản lý tập thể có thể áp dụng trên nhiều lĩnh vực. Trong phạm vi đề tài của mình, nhóm tác giả chọn tìm hiểu về quản lý tập thể quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc. Nhóm tác giả nhận định, hiện nay, đây là đối tượng đang bị xâm phạm bất hợp pháp với số lượng và mức độ lớn nhất, kể cả tác phẩm âm nhạc trong và ngoài nước. Do tính chất dễ truyền đạt, phát tán của tác phẩm âm nhạc, quản lý tập thể quyền trong lĩnh vực này cũng rất đặc trưng và phát triển trên thế giới. Chọn nghiên cứu một mảng then chốt sẽ giúp đề tài tập trung, chất lượng hơn, đồng thời 2 vẫn bảo đảm nêu ra được những đặc điểm cơ bản của quản lý tập thể để làm cơ sở áp dụng trên những lĩnh vực khác. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Tìm hiểu về lý luận quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, đặc biệt đối với các tác phẩm âm nhạc. - Tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của tổ chức quản lý tập thể, liên hệ với đặc điểm hoạt động và cơ sở pháp lý tại Việt Nam . - Phân tích các mô hình quản lý tập thể phổ biến trên thế giới, kiến nghị mô hình thích hợp để áp dụng tại Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu đề tài là vấn đề quản lý tập thể quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Trong đó, nhóm tác giả chỉ giới hạn đề tài qua việc nghiên cứu tập trung vấn đề quản lý tập thể đối với quyền của người biểu diễn và quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2008 đến tháng 06/2009. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác–Lênin. Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia. 5. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TẬP THỂ QUYỀN LIÊN QUAN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC 1.1. Quyền tác giả, quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc 1.1.1. Quyền tác giả 1.1.2. Quyền liên quan 1.2. Quản lý tập thể (collective management) 1.2.1. Khái niệm 1.2.2. Phân biệt “quản lý tập thể quyền” và “cấp phép quyền kiểu trung gian”’ 1.2.3. Lịch sử hình thành tổ chức quản lý tâp thể 1.3. Tổ chức quản lý tập thể 3 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM VỀ QUẢN LÝ TẬP THỂ QUYỀN LIÊN QUAN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC - THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM 2.1 Tính chất công hay tư của tổ chức quản lý tập thể. 2.2 Tính chất lợi nhuận và kinh doanh của tổ chức quản lý tập thể. 2.3 Liên đới quản lý bắt buộc 2.4 Khả năng cấp phép mở 2.4.1 Các kiến thức cơ bản về cấp phép mở và giấy phép mở 2.4.2 Lợi thế của việc cấp phép mở 2.4.3 Những tác động xấu của việc cấp giấy phép mở 2.4.4 Những lĩnh vực cần thiết xác lập giấy phép mở 2.4.5 Các kỹ thuật để ban hành một giấy phép mở 2.5 Vị thế độc quyền trên thực tế của tổ chức quản lý tập thể 2.5.1 Việc hình thành vị thế độc quyền trên thực tế của tổ chức quản lý tập thể 2.5.2 Các biện pháp ngăn chặn khả năng lạm dụng vị thế độc quyền trên thực tế của tổ chức quản lý tập thể 2.6 Vấn đề hợp nhất các tổ chức riêng biệt vốn quản lý các quyền khác nhau và dành cho các nhóm chủ sở hữu quyền khác nhau 2.6.1 Lý do của việc hợp nhất tổ chức quản lý tập thể của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm 2.6.2 Đánh giá nhu cầu thiết lập tổ chức liên minh quản lý tập thể quyền của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm tại Việt Nam Chương 3. KIẾN NGHỊ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TẬP THỂ QUYỀN LIÊN QUAN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC PHÙ HỢP TẠI VIỆT NAM 3.1 Vấn đề quản lý quyền 3.1.1 Các phương pháp quản lý tập thể phổ biến trên thế giới 3.1.2 Phương pháp quản lý tập thể quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc – trường hợp cụ thể của RIAV (Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam) 3.1.3 Cơ cấu tổ chức 3.1.4 Cơ chế quản lý nhà nước 3.2 Vấn đề chống xâm phạm quyền 3.2.1 Các biện pháp kỹ thuật 3.2.2 Các biện pháp hành chính, dân sự 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TẬP THỂ QUYỀN LIÊN QUAN TRONG TÁC PHẨM ÂM NHẠC 1.1 Quyền tác giả, quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc Muốn nghiên cứu về quyền tác giả, quyền liên quan trong tác phẩm âm nhạc, đầu tiên phải xác định được nội hàm chính xác của khái niệm “tác phẩm âm nhạc”. Tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Định nghĩa này giúp mở rộng khái niệm “tác phẩm âm nhạc” so với cách hiểu thông thường. Một bản nhạc được sáng tác, cho dù không trình diễn trước công chúng, vẫn được xem là tác phẩm âm nhạc và được bảo hộ theo các nguyên tắc luật định. 1.1.1 Quyền tác giả Khoản 1 Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ quy định “Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả”. Chủ thể của quyền tác giả được phân thành hai nhóm là tác giả _ người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, và chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, sự phân chia này không phải lúc nào cũng cố định và tách bạch. Ví dụ: theo quy định tại Điều 37 Luật sở hữu trí tuệ, trong trường hợp tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm, thì hai chủ thể này nhập làm một, tác giả cũng chính là chủ sở hữu quyền tác giả. Nhìn chung, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Nhóm tác giả sẽ giữ quyền nhân thân và nhóm chủ sở hữu quyền tác giả sẽ giữ quyền tài sản. Sự phân chia này cũng mang tính tương đối. Ví dụ trường hợp chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, quy định tai Điều 39 Luật sở hữu trí tuệ, thì chủ sở hữu này không những giữ quyền tài sản mà còn có thêm một quyền nhân thân là công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm đó. 1.1.2 Quyền liên quan Cụm từ “liên quan” thể hiện sự phụ thuộc, sự tồn tại song song của quyền liên quan đối với quyền tác giả. Phải có một thực thể tồn tại độc lập thì mới xuất hiện thực thể khác liên quan tới nó. Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định quyền liên quan là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Chủ thể của quyền liên quan được liệt kê gồm ba nhóm là người biểu diễn; nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình và tổ chức phát sóng. Có thể dễ dàng nhận thấy các quyền của ba chủ thể nói trên mang tính chất bổ trợ, tồn tại song song với quyền tác giả. Nếu tác 5 giả sáng tạo ra một tác phẩm mà không có người biểu diễn thì tác phẩm ấy không thể đến được với công chúng. Ngay cả khi có người biểu diễn tác phẩm ấy, thì việc truyền bá tác phẩm vẫn mang tính giới hạn về không gian, thời gian. Do đó, hoạt động của nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình, của tổ chức phát sóng đóng vai trò quan trọng để tác phẩm được phổ biến rộng rãi. Tuy có sự “liên quan” như vậy, việc bảo hộ quyền liên quan không được làm mất đi tính nguyên gốc của tác phẩm, cũng như ảnh hưởng đến quyền tác giả đối với tác phẩm đó. Sự khác biệt về tương quan giữa quyền liên quan và quyền tác giả xuất phát từ bản chất của các hệ thống pháp luật trên thế giới. Các nước theo hệ thống luật thành văn, điển hình như Pháp, coi bản quyền là con đẻ của Cách mạng Pháp, là quyền không thế tách rời với tác giả, nói cách khác là một phần của nhân quyền. Thực tế, điều này được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới của Pháp năm 1948: “Article 27(2) reads “Everyone has the right to the protection of the moral and material interests resulting from any scientific, literary or artistic production of which he is the author” (Tạm dịch: Mọi người đều có quyền được bảo vệ lợi ích tinh thần và vật chất gắn với bất kỳ sản phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật nào mà họ là tác giả) Với việc bản quyền gắn bó khắng khít với tác giả như vậy, tuy một số thành phần mang tính kinh tế của quyền (tức quyền liên quan) được chuyển giao cho nhà sản xuất, nhưng quyền tác giả vẫn được tôn trọng. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống thông luật, bản quyền thực chất là độc quyền cùa nhà sản xuất. Do quá trình phát triển lâu dài, quyền này mới mở rộng ra và bao trùm cả tác giả.1 Trong phạm vi đề tài này, nhóm thực hiện xin giới hạn phân tích quyền liên quan của chủ thể người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình mà không đề cập đến tổ chức phát sóng. Điều này gắn với thực tế là các tổ chức quản lý tập thể (sẽ được giới thiệu sau đây) thường ghép chung việc quản lý quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình, nhưng lại tách riêng việc quản lý quyền của tổ chức phát sóng. Việc tách riêng này xuất phát từ sự “sinh sau đẻ muộn” của tổ chức phát sóng. Bên cạnh đó, hoạt động của hai nhóm chủ thể kia có thể tồn tại độc lập mà không cần đến tổ chức phát sóng. Tuy nhiên, nếu không có người biểu diễn tác phẩm, không có các bản ghi của tác phẩm thì việc phát sóng không thể thực hiện được. 1Collective management of copyright and neighbouring rights in Canada: An international perspective, Daniel J. Gervais 6 1.2 Quản lý tập thể (collective management) 1.2.1 Khái niệm Trước khi đưa ra định nghĩa chính xác về quản lý tập thể, cần nêu khái quát về lý do hình thành mô hình này trên thực tế. Yếu tố đặc trưng và cơ bản của quyền tác giả là sự độc quyền. Chủ sở hữu quyền tác giả có độc quyền trong việc khai thác và ủy quyền cho người khác khai thác tác phẩm của mình. Điều này có nghĩa là chỉ duy nhất chủ sở hữu quyền tác giả có vị thế cho phép một người sử dụng tác phẩm của mình, và ngăn cấm một người khác sử dụng (về thực chất, quyền ngăn cấm này không mang tính phủ định mà nhằm mục đích đảm bảo cho tác phẩm được khai thác bằng cách thức phù hợp với ý định và lợi ích của chủ sở hữu quyền). Độc quyền này chỉ có thể được thực thi một cách hoàn chỉnh nhất khi từng chủ sở hữu quyền trực tiếp thực hiện quyền của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người sử dụng tác phẩm là rất lớn, với địa điểm và thời điểm sử dụng đa dạng, chủ sở hữu quyền không thể gặp từng người để thương lượng, cấp phép rồi thu tiền thù lao được. Nhạc sỹ Phú Quang không thể mỗi ngày đi các quán cà phê để xem nơi nào phát nhạc của ông, mỗi đêm đi các phòng trà xem ca sĩ nào hát bài hát của ông. Chưa kể các bài hát của nhạc sỹ Phú Quang có thể được sử dụng ở mọi tỉnh thành trên khắp đất nước, thậm chí ở nước ngoài, vào sáng sớm, buổi trưa, xế chiều và buổi tối. Việc bản thân chủ sở hữu quyền có thể tự thực hiện và bảo vệ quyền của mình, theo đó, hầu như là bất khả thi. Khó khăn này dẫn đến ba hướng giải quyết. Thứ nhất, do tôn trọng tuyệt đối quyền tác giả, không ai có thể sử dụng quyền tác giả mà không được trực tiếp cho phép. Có nghĩa là nếu Phú Quang cho phép 10 quán cà phê sử dụng nhạc của ông thì chỉ 10 quán này có quyền khai thác. Mọi cá nhân, tổ chức khác nếu vi phạm sẽ bị phạt. Các khán giả muốn nghe nhạc Phú Quang thì chỉ có 10 nơi để đến. Giải pháp này vô cùng hạn chế về mặt hiệu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhu cầu của người sử dụng,thậm chí ngay bản thân chủ sở hữu, như Phú Quang, cũng không muốn tác phẩm của mình bị giới hạn như vậy. Thứ hai, nếu độc quyền không thể giải quyết theo hướng cá nhân truyền thống thì nên bãi bỏ hoặc giảm bớt chúng để chỉ còn là quyền hưởng thù lao. Điều này có nghĩa là tất cả mọi người đều có quyền sử dụng nhạc Phú Quang, miễn phí hoặc chỉ trả một khoản thù lao nhất định, mà không phải quan tâm việc tác giả có đồng ý hay không. Tuy giải pháp này tạo cơ hội to lớn cho người sử dụng tiếp cận tác phẩm, nhưng lại xâm phạm nghiêm trọng đến quyền cơ bản của chủ sở hữu quyền. Vì không thể nói rằng nếu không thực hiện, quản lý được một việc nào đó thì nên loại bỏ hay hạn chế nó. Nếu ý kiến này được thông qua thì việc sở hữu quyền của chủ sở hữu hầu như trở thành vô nghĩa. Sở hữu làm gì khi mình không thể ngăn cấm ai đó sử dụng tác phẩm 7 của mình, và cũng không được đảm bảo lợi ích về kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến sự thui chột sức sáng tạo. Thứ ba, chính là mô hình liên đới quản lý quyền. “liên đới quản lý quyền” là việc các chủ sở hữu quyền riêng lẻ liên kết dưới những cách thức nhất định để cùng thực hiện các quyền giống nhau. Hai hình thức của liên đới quản lý quyền là “quản lý tập thể” và “cấp phép quyền kiểu trung gian”. Trong đó, mô hình “quản lý tập thể” thường được các nước áp dụng. “Trong cơ cấu của một tổ chức quản lý tập thể, chủ sở hữu quyền ủy quyền cho các tổ chức quản lý tập thể giám sát việc sử dụng tác phẩm của họ, thương lượng với những người sử dụng tiềm năng, cấp phép cho họ với mức thù lao hợp lý dựa trên một hệ thống biểu giá và theo những điều kiện thích hợp, thu tiền thù lao, và phân bổ khoản tiền ấy cho các chủ sở hữu quyền.”2 Như vậy, Phú Quang sẽ kí hợp đồng với một tổ chức quản lý tập thể, sau đó yên tâm là các quyền lợi của mình đã được tổ chức này bảo vệ. Các khán giả ở khắp nơi cũng không phải chờ gặp Phú Quang xin phép mà chỉ cần liên hệ trực tiếp với một tổ chức chuyên nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu của mình bất cứ lúc nào. Dễ dàng nhận thấy, phương án thứ ba này vẫn có nhược điểm, như là sự kiểm soát của các chủ sở hữu quyền đối với một số yếu tố nhất định trong quyền của họ trở thành gián tiếp. Tuy nhiên, nếu hệ thống quản lý tập thể vận hành trơn tru, thì các quyền vẫn duy trì được đặc điểm bản chất của chúng. Và so với lợi ích mà mô hình quản lý tập thể đem lại, nhược điểm này hoàn toàn chấp nhận được. Không những bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu, hệ thống quản lý tập thể cũng đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng. Do một tổ chức quản lý tập thể sẽ quản lý quyền của rất nhiều tác giả, người sử dụng không cần phải đến nhà Phú Quang, Phó Đức Phương, Thuận Yến để xin cấp phép mà chỉ cần đến một tổ chức duy nhất. Đồng thời, do quản lý tập thể đơn giản hóa các cuộc 2 Quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan – TS Mihály Fiscor 8 thương lượng, giám sát sử dụng và thu phí, người sử dụng sẽ được khai thác tác phẩm với chi phí giao dịch thấp hơn, được nhiều lợi ích hơn. 1.2.2 Phân biệt “quản lý tập thể quyền” và “cấp phép quyền kiểu trung gian” Nếu chỉ dừng lại như mức phân tích ở trên thì “quản lý tập thể quyền” hầu như không khác gì “cấp phép quyền kiểu trung gian”. “Cấp phép quyền kiểu trung gian là một hệ thống liên đới trong đó nghĩa vụ duy nhất là thu và chuyển giao tiền bản quyền nhanh nhất và chính xác nhất với mức chi phí thấp nhất có thể, càng cân xứng với giá trị và công dụng thực tế của sản phẩm càng tốt.”3 Như vậy, có thể hình dung hoạt động của “cấp phép quyền kiểu trung gian” giống hệt như mô hình quản lý tập thể được sơ đồ hóa như hình (1). Tuy nhiên, trong “cấp phép quyền kiểu trung gian”, đây là nghĩa vụ duy nhất, còn trong “quản lý tập thể”, việc thu tiền bản quyền, phân phối lại chỉ là một phần trong các nghĩa vụ phải thực hiện. “Cấp phép quyền kiểu trung gian”quan tâm đến quyền hưởng thù lao của chủ sở hữu. “Quản lý tập thể” quan tâm đến quyền của chủ sở hữu. Một tổ chức quản lý tập thể thực sự không chỉ là một bộ máy thu-chi mà còn tích cực thúc đẩy quyền lợi tinh thần của chủ sở hữu quyền. Nó có mục tiêu chung rõ ràng, nhằm đến một sự thừa nhận về mặt xã hội và pháp lý tốt hơn đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên, thúc đẩy sự sáng tạo của thành viên… Điểm khác biệt lớn nhất của quản lý tập thể so với cấp phép kiểu trung gian chính là yếu tố “tập thể”, sau lưng nó là một tập thể thật sự chứ không chỉ là một cơ quan được ủy quyền quản lý. Hệ thống liên đới cấp phép kiểu trung gian chỉ là một thực thể đứng ra với tư cách đại diện, thực hiện công việc được xác định của những chủ thể trao quyền. Trong khi đó, quản lý tập thể được hình thành với một tập thể thực sự, cử ra một số cơ quan thường trực chuyên làm các nhiệm vụ được chính tập thể đó phân cấp. Có thể hình dung: “cấp phép kiểu trung gian” như một tổ chức để thực hiện “dịch vụ” thu và cấp tiền bản quyền cho các chủ sở hữu quyền; còn “quản lý tập thể” là một tổ chức như một “ban giám đốc” thực hiện các công việc được “đại hội đồng cổ đông” là tập thể các chủ sở hữu quyền ủy thác trong công ty cổ phần. Hai mô hình này có thể cùng tồn tại và hoạt động bên nhau theo kiểu “chung sống hòa bình”, thậm chí họ có thể thành lập liên minh hoặc hợp tác thực hiện những quyền nhất định. Tuy nhiên, do sự khác biệt về chiến lược và mục tiêu, hai hệ thống này có thể xảy ra mâu thuẫn, cạnh tranh. Tại các quốc gia có truyền thống luật thành văn, nơi hệ thống quyền tác giả coi người sáng tạo là trung tâm, việc liên đới quản lý quyền thường được phát triển toàn diện cả về mặt vật 3 Quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan – TS Mihály Fiscor 9 chất và tinh thần, nên những tổ chức quản lý tập thể chiếm ưu thế hơn cấp phép quyền kiểu trung gian. 1.2.3 Lịch sử hình thành tổ chức quản lý tập thể Các tổ chức quản lý tập thể ra đời lần đầu tiên tại Pháp vào thế kỷ 18. Lúc ban đầu, chức năng của các tổ chức này không phải là quản lý tập thể mà chính là việc đấu tranh để được công nhận và tôn trọng một cách đầy đủ các quyền của tác giả. Ban đầu Beaumarchais – nhà biên kịch là người đầu tiên dẫn dắt các trận chiến pháp lý chống lại những nhà hát tại Pháp để yêu cầu họ thừa nhận và tôn t