Đề tài Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu Luật dân sự

Trong hệ thống pháp luật nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận là quyền cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội, quyền sở hữu được pháp luật bằng nhiều phương thức khác nhau. Ở nước ta cũng không ngoại lệ, bảo vệ quyền sở hữu là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật và được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự. Ngoài các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu bằng chế tài hành chính, chế tài hình sự thì các phương thức kiện dân sự được sử dụng khá phổ biến và mang tính khả thi hơn. Với tình hình pháp triển như hiện nay, một nền kinh tế thị trường hội nhập và đời sống của người dân không ngừng đổi mới. Chính vì vậy mà vấn đề bảo vệ quyền sở hữu cũng như thực tế các vụ kiện xảy ra hiện nay ngày càng phức tạp. Nên việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực tế xét xử và các quy định trong luật liên quan đến phương thức bảo vệ quyền sở hữu là rất cần thiết.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6345 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu Luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỤC LỤC…………………………………………………………….. 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………... 2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………… 2 1. Khái quát chung về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu………… 3 1.1 Quyền sở hữu………………………………………………………. 3 1.2 Bảo vệ quyền sở hữu………………………………………………. 2. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự…… 2.1 Kiện đòi lại tài sản…………………………………………………. 2.2 Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật Đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp…. 2.3 Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại…………………………………... 3. Đánh giá các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự……………………………………………………………… 4. Liên hệ thực tiễn………………………………………………….. 4.1 Các vụ kiện điển hình……………………………………………. 4.2 Nhận xét………………………………………………… 5. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chế định bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự……………………………………………….. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong hệ thống pháp luật nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận là quyền cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội, quyền sở hữu được pháp luật bằng nhiều phương thức khác nhau. Ở nước ta cũng không ngoại lệ, bảo vệ quyền sở hữu là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật và được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự. Ngoài các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu bằng chế tài hành chính, chế tài hình sự thì các phương thức kiện dân sự được sử dụng khá phổ biến và mang tính khả thi hơn. Với tình hình pháp triển như hiện nay, một nền kinh tế thị trường hội nhập và đời sống của người dân không ngừng đổi mới. Chính vì vậy mà vấn đề bảo vệ quyền sở hữu cũng như thực tế các vụ kiện xảy ra hiện nay ngày càng phức tạp. Nên việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực tế xét xử và các quy định trong luật liên quan đến phương thức bảo vệ quyền sở hữu là rất cần thiết. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về ‘‘ Tài sản và quyền sở hữu’’. 1.1 Quyền sở hữu Quyền sở hữu là một chế định pháp luật quan trọng được Nhà nước quy định nhằm xác định nội dung về sở hữu. Theo Điều 164 BLDS (BLDS) của Việt Nam thì: “ Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Như vậy quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản: Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản tức là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm vi kiểm soát của mình, ví dụ, cất tiền bạc, tư trang trong tủ… Quản lý tài sản được hiểu là việc người chiếm hữu, kiểm soát sự tồn tại của tài sản và việc sử dụng tài sản; Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản; Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Từ nội dung này cho thấy chủ sở hữu một tài sản có toàn quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Như vậy, BLDS đã đưa ra một định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách liệt kê những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể của quyền này. Đây có thể xem là một phương pháp lập pháp rất riêng của Việt Nam, vì qua nghiên cứu luật dân sự của các nước trên thế giới, chúng ta thấy họ không đưa ra khái niệm về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, mà khái niệm này chỉ tồn tại trong khoa học luật. Bảo vệ quyền sở hữu Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.” Bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi xử sự của con người qua đó bảo đảm cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện được các quyền năng của quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu, quyền chiếm hữu của mình. Hệ thống pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu thông qua nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, mỗi ngành luật lại bảo vệ quyền sở hữu bằng cách thức riêng biệt tùy theo chức năng vốn có của nó. Luật Hành chính bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những thể lệ nhằm quản lí và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Đồng thời Luật Hành chính cũng quy định về các biện pháp hành chính mà Nhà nước sử dụng để thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản đó như thu hồi tài sản, xử phạt hành chính… Luật Hình sự cũng có nhiệm vụ bảo vệ quyền sở hữu. Với tính chất cưỡng chế nghiêm khắc của chế tài hình sự, Nhà nước quy định trong BLHS những hành vi nào xâm phạm đến quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ của hành vi đó. Luật dân sự, bằng những đặc điểm riêng của mình bảo vệ quyền sở hữu bằng những biện pháp, cách thức khác so với những ngành luật khác. Theo quy định tại Điều 255, BLDS 2005 thì: “ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp luật”. Quyền tự bảo vệ quyền của chủ sở hữu được hiểu là quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể dùng bất kỳ biện pháp mà pháp luật không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của mình như cất giữ, quản lý… Ngoài ra, quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu còn gắn liền với quyền ngăn cản bất kỳ chủ thể nào khác có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình; có quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp có quyền: “ … Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Những phương thức này gọi chung là phương thức kiện dân sự – phương thức được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của mình. Trong các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu đã nêu trên, phương thức dân sự có ý nghĩa quan trọng riêng. Đây là phương thức có ý nghĩa thực tế nhất, vì nó khôi phục lại tình trạng ban đầu ( tình trạng trước khi bị vi phạm) về mặt vật chất cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. 2. CÁC PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ Kiện đòi lại tài sản ( kiện vật quyền) Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này.” Tuy nhiên đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, thì không áp dụng việc đòi lại tài sản ( theo quy định tại khoản 1 Điêu 247 hoặc các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 của BLDS năm 2005 thì không đòi lại tài sản.) Ÿ Khi áp dụng phương pháp này đòi hỏi thỏa mãn các điều kiện sau: Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu cầu ( nguyên đơn): Là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó như người thuê tài sản, người nhận giữ tài sản, người cầm cố… Những người này khi yêu cầu phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản hoặc phải chứng minh được mình là người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản. Thứ hai, người bị khởi kiện ( bị đơn): Phải là người chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản. Điều kiện này rất quan trọng vì có nhiều khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu đó lại trở thành người chủ sở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu ( Điều 247 BLDS 2005) hoặc do đã hết quyền hưởng thời hiệu dân sự trong trường hợp nhận được tài sản đánh rơi, phát hiện gia súc, gia cầm thất lạc ( Điều 241,242, 243 BLDS 2005). Thứ ba, tài sản phải còn trong sự chiếm hữu của chủ thể chiếm hữu bất hợp pháp. Nếu tài sản không còn tồn tại do đã bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy thì lúc này không thể áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản mà chỉ có thể áp dụng được phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, vật hiện còn có thể được hiểu là còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã giảm sút giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị. Thứ tư, không rơi vào các trường hợp pháp luật quy định không phải trả lại tài sản được quy định tại Điều 257, Điều 258 BLDS 2005. Điều 257 BLDS quy định về việc đòi lại động sản không có đăng ký quyền sở hữu từ những người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.’’  Theo đó thì chủ sở hữu chỉ đòi lại được tài sản nếu người chiếm hữu ngay tình có được động sản đó thông qua giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt đối với tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp bị người khác chiếm hữu ngoài ý muốn của chủ sở hữu. Như vậy, nếu người ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài sản đó không phải bị mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì nguyên đơn không thể khởi kiện đòi lại tài sản. Đối với động sản thì phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản, theo Điều 258 BLDS quy định: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa .’’ Việc môt người có tài sản thông qua việc mua bán đấu giá hoặc giao dịch với người đã được Nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ÿ Hậu quả của việc áp dụng phương thức kiện đòi tài sản : Khi phương thức kiện đòi tài sản được thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì người chiếm hữu tài sản buộc phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu,người chiếm hữu hợp pháp. Tuy nhiên hậu quả sẽ khác nhau trong hai trường hợp sau : - Đối với người chiếm hữu, sử dụng, được lợi từ tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì ý chí của họ hoàn toàn ngay thẳng và họ coi đó là tài sản của chính mình và họ cần được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy tại Điều 200 BLDS thì những người này được quyền chiếm hữu, sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật ngay tình không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó ( Điều 601 BLDS 2005). - Đối với người đang chiếm hữu tài sản thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì người đó luôn luôn phải trả lại tài sản đồng thời phải hoàn trả cả hoa lợi, lợi tức có được trong thời gian chiếm hữu tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. Như vậy, sự ghi nhận của pháp luật đối với phương thức kiện đòi tài sản thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ tuyệt đối của Nhà nước đối với quền sở hữu hợp pháp của chủ thể trong xã hội. Thông thường chủ sở hữu nào cũng mong muốn lựa chọn phương thức đòi lại tài sản bởi vì đó là phương thức bảo hộ thiết thực và hiệu quả mà không cần quan tâm đến khả năng tài chính của người phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên nếu không thỏa mãn các điều kiện đòi lại tài sản thì chủ thể bị xâm phạm có thể áp dụng phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại để bảo vệ lợi ích cho mình. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất,kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nói cách khác : ‘’ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được làm thiệt hại và ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác .’’ ( Điều 165 BLDS) Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận với chủ sở hữu của tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật ( Điều 194 BLDS) . Theo quy định tại Điều 259 BLDS thì : ‘‘ Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.’’ Theo quy định đó thì khi pháp hiện hành vi xâm phạm tới việc thực hiện các quyền năng của mình thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có một trong hai quyền năng sau: - Tự mình yêu cầu người có hình vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó: ngay khi phát hiện ra hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, chủ sở hữu,người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi mà không cần chờ bất cứ một thủ tục nào. Biện pháp tự bảo vệ này mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi ngay từ đầu, tránh được vụ việc xảy ra nghiêm trong hơn. - Yêu cầu Tòa án. cơ quan có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi đó. Nếu biện pháp tự yêu cầu của chủ thể đạt hiệu quả không cao và bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì pháp luật cho phép chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết. Khi đó các cơ quan này sẽ sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp tài sản của người khác phải chấm dứt hành vi xâm phạm. Như vậy, mục đích chính của phương pháp này là nhằm đảm bảo để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường. Do đó khi phương pháp kiện này áp dụng thì sẽ mang lại hậu quả pháp lí buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm như dừng việc xây dựng lấn chiếm sang đất nhà hàng xóm, hay xây bịt lối đi chung… 2.3 Kiện đòi bồi thường thiệt hại ( kiện trái quyền) Theo Điều 260 BLDS đã quy định : “ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại.” Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản có quyền kiện tới Tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đã không thể kiện đòi lại tài sản do tài sản đã bị hư hỏng hoặc đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ thể khác không xác định được hoặc người chiếm hữu tài sản đó là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và không phải trả lại tài sản. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể đặt ra đối với trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì các bên có thể thỏa thận về điều kiện bồi thường, mức bồi thường, phương thức bồi thường… trong hợp đồng và khi có tranh chấp xảy ra, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng để giải quyết. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì điều kiện để có thể áp dụng biện pháp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm hại bao gồm: Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra: đây là điều kiện đầu tiên, cần thiết để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi lẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra là nhằm khôi phục thiệt hại cho người bị thiệt hại. Do đó nếu không có thiệt hại xảy ra thì cũng sẽ không thể buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại. Thứ hai, có hành vi trái pháp luật: nếu hành vi gây thiệt hại được coi là hành vi hợp pháp như trường hợp người gây thiệt hại đang thi hành công vụ, gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luât phải là nguyên nhân và tất yếu dẫn tới một thiệt hại xảy ra về tài sản thì người có hành vi đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu ngyên nhân không phải do hành vi mà có thể là do tài sản đó tự bị hư hỏng do hết thời gian sử dụng hay do chất lượng kém… thì người thực hiện hành vi đó sẽ không phải bồi thường thiệt hại mà chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp phải chịu rủi ro. Thứ tư, có lỗi của người gây thiệt hại: người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi gây ra thiệt hại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu gây thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản thì người gây ra thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản bị gây thiệt hại không phải do hành vi của con người gây ra thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra nguyên nhân là chính do tài sản đó gây ra. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hoặc người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản gây thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu, nguwoif chiếm hữu hợp pháp tài sản bị xâm phạm. Ÿ Hậu quả của việc áp dụng phương thức đòi bồi thường thiệt hại: Nếu các bên không có thỏa thuận khác về mức bồi thường, phương thức bồi thường thì thiệt hại về tài sản được bồi thường toàn bộ theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu và có thể bao gồm những thiệt hại sau đây: - Thiệt hại do tài sản bị mất - Thiệt hại do tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng - Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản - Chi phí hợp lí để ng
Luận văn liên quan