Đề tài Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo

Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Điều 9 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự ( BLTTHS ) 2003 thì: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 1 : Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo. I. Khái quát chung về bị can, bị cáo. 1. Khái niệm bị can Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Điều 9 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự ( BLTTHS ) 2003 thì: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị pháp lý của bị can. Nhưng dựa vào những điểm đã phân tích ở trên ta có thể thấy : Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối với bị can để xác định sự thật. Bị can được pháp luật quy định cho các quyển tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm. 2. Khái niệm bị cáo Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003 thì: Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC đưa ra định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo. Theo đó “bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố người đó trước Tòa án nhân dân, nếu Viện kiểm soát không truy tố thì Tòa án nhân dân không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những việc hình sự nhẹ”. Kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo. Cũng giống như khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng áp dụng đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trên thực tế bị cáo cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó có hiệu lực pháp luật II. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo. 1. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị can. 1.1 Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Quyền này thể hiện tính chất quan trọng của việc một ngượi bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết mình bị khởi tố về những tội gì. Bởi vì mục đích của việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy người bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết rằng mình bị khởi tố về tội gì để họ có thể tự bào chữa để gỡ tội cho mình. Nếu không biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ tội cho mình cùng những lời bào chữa. Trên thực tế, việc đảm bảo quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Có thể có nhiều lí do dẫn đến tình trạng trên nhưng lí do chủ yếu nhất vẫn là việc Người tiến hành tố tụng ( NTHTT) vẫn chưa giải thích cụ thể cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như việc nhận thức pháp luật của bị can chưa cao. Điều đó khiến cho bị can nhiều khi đã nhận được quyết định khởi tố bị can nhưng vẫn chưa thực sự nắm rõ mình bị khởi tố về tội gì. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ của bị can cũng như tự bào chữa cho mình gây khó khăn hơn cho công tác điều tra, xác định sự thật của vụ án. Theo quy định tại BLTTHS 2003 thì: “Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì”. Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì mà không phụ thuộc quá nhiều vào các Cơ quan tiến hành tố tụng( CQTHTT), NTHTT. Việc thực hiện và bảo đảm tốt quyền này của bị can sẽ tạo điều kiện cho CQTHTT, NTHTT nhanh chóng kịp thời điều tra, xác minh sự thật vụ án góp phần giảm bớt những oan sai trong việc thụ lí và giải quyết các vụ án hình sự. 1.2. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình. Và để đảm bảo cho bị can biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì thì BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể là bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Việc đảm bảo quyền này của bị can có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị can không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Để thực hiện tốt quyền này của bị can thì CQTHTT và NTHTT đều phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình là giải thích rõ cho bị can biết mình có quyền và nghĩa vụ gì. 1.3. Quyền được trình bày lời khai. Bị can có quyền trình bày lời khai về những vấn đề liên quan trong vụ án mà họ bị khởi tố. Đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can. Nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này để khai báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô tội hoặc phạm tội ở mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết, lí do để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cũng có trường hợp bị can từ chối không khai báo về hành vi của mình. Tuy nhiên trong trường hợp mà họ từ chối khai báo hay khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, nếu bị can có thái độ khai báo thành khẩn thì đó lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Trong trường hợp nào thì cơ quan điều tra cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua chính lời khai của bị can – người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định được sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Thực tế hiện nay cho thấy, quyền được trình bày lời khai của bị can chưa thực sự được đảm bảo. Vẫn có những trường hợp bị can bị ép phải khai báo hay bị mớm cung, bức cung nhằm buộc tội bị can phải thừa nhận đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm theo ý chủ quan của NTHTT. 1.4. Quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Theo quy định tại BLTTHS năm 1988 thì bị can có quyền đưa ra “chứng cứ và những yêu cầu”, còn theo quy định mới của BLTTHS 2003 thì bị can có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy đã có sự thay đổi của pháp luật từ việc bị can có quyền đưa ra chứng cứ thì nay chuyển thành những tài liệu, đồ vật. Sự thay đổi này trong quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lí, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta. Bởi vì khi bị can cung cấp cho cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì không phải mọi tài liệu, đồ vật đó đều là chứng cứ trong vụ án. Khi cơ quan điều tra nhận được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ vụ án hay không. Và chỉ khi các tài liệu đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì chúng mới trỏ thành chứng cứ trong vụ án. Hiện nay quyền này của bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Nguyên nhân xuất phát từ chính những NTHTT khi họ không thấy hết được tầm quan trọng của việc đảm bảo thực hiện tốt quyền này. Do vậy, trong nhiều trường hợp, NTHTT đã vị phạm một cách nghiêm trọng khi không xem xét một cách khách quan những chứng cứ hay những yêu cầu mà bị can đưa ra mà đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng không phù hợp với hướng điều tra của mình. 1.5. Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là những chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ thể nêu trên thực hiện tốt được vai trò của mình trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự. Bởi vậy, việc thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch để đảm bảo vụ án được điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, sự thật của vụ án được xác định một cách khách quan, công bằng là điều rất cần thiết. Bị can có quyền đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ rang để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Khi các CQTHTT nhận được yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét, giải quyết yêu cầu đó nếu thấy yêu cầu là có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. 1.6. Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Đây là một quyền quan trọng của bị can trong tố tụng hình sự. Bị can có quyền tự bào chữa. Theo đó thì bị can có quyền dùng những lí lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của bị can mà quyền bào chữa chính là sự tổng hòa các quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vì khi tham gia vào quá trình tố tụng, ngoài việc bị can đưa ra những lí lẽ, chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can còn thực hiện quyền tự bào chữa của mình thông qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày lời khai, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu… Việc thực hiện các quyền này của bị can không chỉ nhằm gỡ tội cho bị can mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị can. Thông qua quyền tự bào chữa của bị can thì Nhà nước đã cho phép bị can tự vệ, chống lại sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Ngoài quyền tự bào chữa, bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Quyền này thể hiện sự đảm bảo của pháp luật cho quyền bào chữa của bị can. Pháp luật đảm bảo cho bị can được người khác bào chữa cho mình nếu không thể tự mình bào chữa. Người được bị can bào chữa phải là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLTTHS thì trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người đại diện hợp pháp của bị can đó có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho bị can. Khoản 2 điều 305 BLTTHS quy định trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ. Bị can và người đại diện của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa được đoàn luật sư cử bào chữa cho bị can. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can. Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa của bị can ngày càng được đảm bảo tốt hơn. 1.7. Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng. Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003 thì khi tham gia vào quá trình tố tụng, bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng. Các quyết định và văn bản tố tụng như: quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Các quyết định và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can. Việc pháp luật quy định bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng nhằm đảm bảo cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác của mình. 1.8. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì pháp luật đã cho phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT. Theo quy định tại Điều 328 BLTTHS 2003 thì bị can chỉ có quyền khiếu nại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà bị can cho rằng có vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Điều 328 cũng quy định, trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, dịch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà bị can không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời điểm khiếu nại. Theo quy định tại Điều 329 BLTTHS 2003 thì đối với khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét và giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại thì bị can có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhân được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định của cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên phải xem xét và giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết cuối cùng. Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS 2003 thì khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Phó viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng. 1.9. Các nghĩa vụ tố tụng. Bị can có các quyền trong tố tụng hình sự thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 quy định: “bị can phải có một đơn giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Như vậy, trong trường hợp bị can được tại ngoại, khi cần sự có mặt của bị can để tiến hành các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động tố tụng khác thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát. Việc triệu ập bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 129 BLTTHS 2003. Giấy triệu tập bị can phải ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can, thời gian, địa điểm bị can phải có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính đáng. Giấy triệu tập bị can này sẽ được gửi cho chính quyền xã, phường thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan tổ chức nhận được giấy triệu tập phải có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can. Và bị can khi nhận được giấy triệu tập phải ký nhận và có ghi rõ ngày giờ nhận được. Người chuyển giấy triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã triệu tập bị can. Nếu trong trường bị can đã nhận được giấy triệu tập nhưng không kí nhận thì người chuyển giấy triệu tập phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can. Nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can. Trong trường hợp bị can vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải. Việc áp giải bị can cũng phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 130 BLTTHS. Trong trường hợp bị can bị truy nã. Còn trong trường hợp bị can bị tạm giam thì việc triệu tập bị can của cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không được thông qua Ban giám thị trại tạm giam. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án có thể triệu tập bị can để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan trước khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm bị can sẽ có mặt khi được triệu tập giúp cho quá trình xét xử thuận lợi. Trong trường hợp Tòa án cần triệu tập bị can mà bị can lợi dụng sơ hở pháp luật, không có mặt theo giấy triệu tập sẽ làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án của Tòa án. 2. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo. 2.1. Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng. Quyền đầu tiên của bị cáo là quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Vì quyết định đưa vụ án ra xét xử có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Quyết định đó sẽ khiến người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo. Và bị can dựa vào quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ có thể biết được mình bị đưa ra xét xử với tội danh gì, thời gian, địa điểm mở phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, người bào chữa, người phiên dịch, những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa, vật chứng cần xem xét tại phiên tòa. Bị cáo có thể thực hiện được các quyền của mình như: quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật, yêu cầu, đặc biệt là xem xét những vật chứng mới có ý nghĩa với việc xác minh sự thật vụ án và quan trọng nhất là quyền tự bào chữa. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại điều 178 BLTTHS 2003. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 182 BLTTHS thì quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng cần phải được niêm yết
Luận văn liên quan