Đề tài Rà soát, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học

Theo Công ước về Đa dạng sinh học (ĐDSH) được đưa ra năm 1992[1] tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển, ĐDSH được định nghĩa là toàn bộ sự phong phú của các thế giới sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong và giữa các loài và sự đa dạng của các hệ sinh thái. Mức độ ĐDSH của một quần xã sinh vật thể hiện ở 3 dạng: đa dạng về loài – là tính đa dạng các loài trong một vùng; đa dạng di truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài; đa dạng hệ sinh thái – là sự đa dạng về môi trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng. Tính đa dạng là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Theo Luật ĐDSH năm 2008 của Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa như sau: “ĐDSH là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” (khoản 5 Điều 3). Có thể nhận thấy rằng khái niệm ĐDSH theo pháp luật của Việt Nam cụ thể, rõ ràng và chính xác hơn so với khái niệm trong Công ước ĐDSH nêu trên. Điều này thể hiện ở một số điểm như: (i) Luật ĐDSH xác định rõ sự phong phú về “gen” còn Công ước ĐDSH lại nêu chung chung là “sự đa dạng bên trong”; (ii) Luật ĐDSH xác định rõ đa dạng về “loài sinh vật” chứ không chỉ là “các loài” như trong Công ước ĐDSH; (iii) Luật ĐDSH xác định rõ sự đa dạng về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong “tự nhiên” còn Công ước ĐDSH chưa nêu rõ ý này. Bên cạnh đó, Luật ĐDSH còn định nghĩa “Bảo tồn đa dạng sinh học” là việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; nuôi, trồng, chăm sóc loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; lưu giữ và bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền (khoản 1 Điều 3). 2. Khái quát thực trạng Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay Việt Nam được biết đến như là một trung tâm ĐDSH của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam 2002 - 2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu. của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo - Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và Phát triển kinh tế). ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam - 1995)[2]. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi, với những nét đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới, Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) đã công nhận Việt Nam có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật[3].

doc37 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2050 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rà soát, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC I. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Khái niệm Đa dạng sinh học Theo Công ước về Đa dạng sinh học (ĐDSH) được đưa ra năm 1992[1] tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển, ĐDSH được định nghĩa là toàn bộ sự phong phú của các thế giới sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong và giữa các loài và sự đa dạng của các hệ sinh thái. Mức độ ĐDSH của một quần xã sinh vật thể hiện ở 3 dạng: đa dạng về loài – là tính đa dạng các loài trong một vùng; đa dạng di truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài; đa dạng hệ sinh thái – là sự đa dạng về môi trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng. Tính đa dạng là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong phú.  Theo Luật ĐDSH năm 2008 của Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa như sau: “ĐDSH là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” (khoản 5 Điều 3). Có thể nhận thấy rằng khái niệm ĐDSH theo pháp luật của Việt Nam cụ thể, rõ ràng và chính xác hơn so với khái niệm trong Công ước ĐDSH nêu trên. Điều này thể hiện ở một số điểm như: (i) Luật ĐDSH xác định rõ sự phong phú về “gen” còn Công ước ĐDSH lại nêu chung chung là “sự đa dạng bên trong”; (ii) Luật ĐDSH xác định rõ đa dạng về “loài sinh vật” chứ không chỉ là “các loài” như trong Công ước ĐDSH; (iii) Luật ĐDSH xác định rõ sự đa dạng về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong “tự nhiên” còn Công ước ĐDSH chưa nêu rõ ý này. Bên cạnh đó, Luật ĐDSH còn định nghĩa “Bảo tồn đa dạng sinh học” là việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; nuôi, trồng, chăm sóc loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; lưu giữ và bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền (khoản 1 Điều 3). 2. Khái quát thực trạng Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay Việt Nam được biết đến như là một trung tâm ĐDSH của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam 2002 - 2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu... của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo - Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và Phát triển kinh tế). ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam - 1995)[2]. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi,… với những nét đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới,… Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) đã công nhận Việt Nam có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật[3].  Tuy nhiên, hiện nay ĐDSH ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần[4]. Những giá trị của ĐDSH lại chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Sự khai thác quá mức các giống loài, nguồn gen động thực vật để phục vụ cho các nhu cầu trước mắt của con người, đặc biệt là trong một số năm gần đây đã đẩy nhanh tốc độ suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Những mối đe doạ chính đối với sự ĐDSH của Việt Nam là tình trạng khai thác rừng quá mức, tập quán du canh du cư, tình trạng lấn chiếm đất trồng trọt, ô nhiễm nguồn nước, sự xuống cấp của môi trường ven biển và những đòi hỏi đặt ra với nông dân trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Những sức ép khác là tình trạng dân số tăng nhanh và các hoạt động phát triển nông nghiệp ở mức độ cao. Nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đang được đề xuất - như đập nước hay đường quốc lộ - và những dự án này cũng gây nguy hại tới ĐDSH, nếu không được quy hoạch và quản lý tốt. Thách thức lớn nhất của Việt Nam là phải nhìn nhận sự ĐDSH quý báu của mình như là một tài sản quý và làm thế nào để cân đối nhu cầu phát triển với nhu cầu bảo tồn[5]. Bên cạnh đó, việc sử dụng phân bón, các loại thuốc bảo vệ mùa màng, thuốc kích thích tăng trưởng một cách bừa bãi trong phát triển nông nghiệp ở nước ta cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đi số lượng các loài sinh vật có ích, giảm tính ĐDSH, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Một số hiện trạng và diễn biến suy thoái ĐDSH ở nước ta có thể được mô tả như sau[6]: - Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên nước ta hiện đang phải chịu sức ép nặng nề từ các hoạt động phát triển kinh tế. Hệ sinh thái rừng tự nhiên có nhiều biến động lớn trong hơn nửa thế kỷ qua. Độ che phủ rừng tăng nhưng phần lớn diện tích tăng là rừng trồng, nếu tính về giá trị ĐDSH thì cao. Hầu hết các vùng tự nhiên còn lại đều đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Diện tích rừng nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn tồn tại trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại các khu vực núi cao của miền Bắc và Tây Nguyên. Đây là mối đe doạ lớn đối với các cấu thành ĐDSH của rừng bao gồm cả các loài thực vật và động vật phụ thuộc vào rừng.  - Xu hướng quần thể của rất nhiều loài thực vật đang suy giảm, càng ngày càng có nhiều loài hơn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã chưa giảm bớt cũng là một trong những nguyên nhân tác động xấu tới số lượng các loài trong tự nhiên. - Hệ sinh thái nông nghiệp và giống cây trồng, vật nuôi bị ảnh hưởng. Các giống cây trồng mới có năng suất cao ngày càng được đưa nhiều vào sản xuất và chiếm diện tích ngày càng lớn. Do đó các giống địa phương ngày càng bị thu hẹp diện tích, vì vậy nhiều nguồn gen quý của địa phương, đặc biệt là các nguồn gen chống chịu sâu bệnh bị mai một. - Từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng trồng tăng rất nhanh, chỉ sau chưa đầy 15 năm rừng trồng đã tăng lên 4 lần. Diện tích rừng tự nhiên tăng lên trên 1 triệu ha, nhưng chủ yếu là rừng phục hồi. Đến năm 2004, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 36,7%. Tuy nhiên, chất lượng của rừng vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn rừng tự nhiên hiện nay thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh chỉ còn 0,75 triệu ha phân bố rải rác. Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, còn tương đối nguyên sinh và có giá trị cao về đa dạng sinh học tập trung chủ yếu ở các khu rừng đặc dụng. Riêng rừng trồng có diện tích trên 2 triệu hecta, chiếm tỷ lệ 18% diện tích có rừng. Rừng trồng công nghiệp hiện nay mang tính thuần loại về cây trồng cao, do vậy tính ĐDSH thấp. - Trong những năm gần đây, việc khai thác và sử dụng đất ngập nước diễn ra một cách ồ ạt thiếu quy hoạch, nhiều diện tích rừng ngập mặn và các vùng đất ngập nước khác bị chuyển thành đất canh tác nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản, làm cho diện tích đất ngập nước bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm, kéo theo đó là các tai biến xói lở, bồi tụ và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Diện tích đầm nuôi tôm tăng dần theo thời gian thì diện tích rừng ngập mặn cũng giảm dần tương ứng. Trước đây, rừng ngập mặn trải dài suốt dọc bờ biển, nhưng hiện nay diện tích này đã giảm đi rất nhiều, gây suy thoái hệ sinh thái rừng ngập mặn làm thiệt hại không nhỏ cho vùng đất ngập nước ven biển và cho các ngành kinh tế quan trọng trong khu vực. - ĐDSH biển bị khai thác quá mức. Nguồn lợi hải sản suy giảm nhanh: trữ lượng hải sản của Việt Nam năm 2003 là 3.072.800 tấn, giảm 25% so với năm 1990 (4,1 triệu tấn). Nhiều loài tôm, cá kinh tế đã bị giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng, thay vào đó thành phần cá tạp trong sản lượng tăng lên. Danh sách các loài thuỷ hải sản bị đe doạ, có nguy cơ tuyệt chủng tăng từ 15 loài, năm 1989, lên 135 loài vào năm 1996. Các rạn san hô đang suy giảm về độ phủ. Hầu hết các rạn san hô đang bị đe doạ, trong đó có 50% ở mức bị đe doạ cao và 17% ở mức bị đe doạ rất cao. Khai thác quá mức đang bị đánh giá là mối đe doạ lớn cho khoảng một nửa số rạn san hô. Có nhiều nơi độ phủ giảm đến trên 30%. Điều này cho thấy rằng rạn san hô đang bị phá huỷ và có chiều hướng suy thoái. - Hiện nay, nguồn gen (cây trồng, vật nuôi và cây thuốc) đang được các cơ quan, tổ chức trong nước, quốc tế nghiên cứu, thu thập, khai thác và phát triển thành thương phẩm có giá trị kinh tế. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, chưa có sự chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng nguồn gen, cũng như chia sẻ một phần lợi nhuận thu được để góp phần duy trì và phát triển tài nguyên. Tri thức bản địa ở nước ta rất phong phú. Tri thức bản địa đã được thừa nhận như một nguồn tài nguyên quan trọng không kém các nguồn tài nguyên hữu hình khác. Tuy nhiên, tri thức bản địa cũng đang bị mất mát nhiều theo thời gian do chưa ý thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên này. Ngoài ra, cũng như nguồn gen, việc chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng tri thức bản địa không lúc nào cũng được thực hiện một cách công bằng. Để bảo tồn tri thức bản địa cần có sự phối hợp giữa người dân, nhà nước và các nhà khoa học. Việc xây dựng các chính sách khai thác, phát triển và chia sẻ lợi ích nguồn gen và tri thức bản địa chưa được quan tâm đúng mức. Các nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH[7]: - Chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu quy hoạch. - Khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học. - Các loài sinh vật ngoại lai xâm lại. - Ô nhiễm môi trường. - Cháy rừng. - Thiên tai. - Quản lý còn nhiều bất cập. Như vậy, có thể thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài nguyên ĐDSH của Việt Nam đã và đang bị suy giảm. Trong đó, nguyên do cơ bản nhất là ĐDSH luôn thay đổi cùng sự tiến hoá của sinh vật trong quá trình hình thành loài mới, trong sự tham gia vào hoặc sự mất đi của một loài. Nguyên nhân gây ra các biến đổi đó là do sự biến đổi bất thường của tự nhiên hoặc do hoạt động của con người.  Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững hoặc tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH,… Trước khi có Luật ĐDSH được ban hành năm 2008, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do còn nhiều tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật về ĐDSH[8] gây ra nhiều khó khăn trong quản lý, bảo tồn và phát triển ĐDSH. Sau khi Luật này được ban hành, có hiệu lực vào ngày 01/07/2009, hệ thống pháp luật về ĐDSH đã được thống nhất, quy về một mối. Tuy nhiên, nhận thức được bảo tồn ĐDSH là vấn đề phức tạp với nhiều nội dung khác nhau (nhất là trong điều kiện Luật mới ban hành) nên việc đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng như hiệu quả áp dụng, thi hành trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết để hoàn thiện các quy định cũng như đẩy mạnh việc thực thi trong thực tế. II. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VIỆT NAM 1. Tổng quan pháp luật bảo tồn Đa dạng sinh học của Việt Nam trước khi có Luật Đa dạng sinh học Trước khi Luật ĐDSH được ban hành, vấn đề bảo tồn ĐDSH được quy định trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó pháp luật môi trường đề cập đến bảo tồn ĐDSH ở mức độ bao trùm, khái quát nhất. Những nguyên tắc, những quy định chung về bảo tồn ĐDSH được đề cập trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển các quy định cụ thể về ĐDSH[9]. Hệ thống pháp luật giai đoạn này quy định những nội dung của vấn đề bảo tồn ĐDSH như sau: (i) các quy định về nguyên tắc và trách nhiệm bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH; (ii) các quy định về bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên; (iii) các quy định về bảo tồn và phát triển bền vững loài hoang dã; (iv) các quy định về nguồn gen; (v) các quy định về an toàn sinh học. Căn cứ vào những tiêu chí chung để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật, có thể thấy một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về ĐDSH tại Việt Nam trước khi Luật ĐDSH được ban hành như sau: - Các quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH còn tản mạn và hiệu quả điều chỉnh trên thực tế chưa cao, nên suy thoái ĐDSH vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong sự nghiệp bảo vệ môi trường ở nước ta. Vấn đề bảo vệ ĐDSH thời kỳ này được quy định tản mạn ở rất nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung trong các văn bản pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, quản lý và bảo hộ giống cây trồng và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nội dung bảo vệ ĐDSH chỉ là một nội dung nhỏ trong những văn bản đó và mỗi văn bản tiếp cận vấn đề bảo vệ ĐDSH theo một góc độ khác nhau, do đó có thể thấy các quy định về bảo vệ ĐDSH còn tản mạn và hiệu quả điều chỉnh trên thực tế chưa cao[10]. Có thể thấy một số quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH còn mang tính tuyên ngôn hay ở mức chung chung, thiếu tính cụ thể, không có tính khả thi, nhiều quy định mang tính định hướng nên khó áp dụng trên thực tế. Các quy định không được pháp điển hóa trong một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các nội dung chính của ĐDSH đã làm hạn chế rất nhiều đến hiệu quả áp dụng pháp luật[11]. Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ gen, kiến thức bản địa, di truyền cây thuốc,... còn mờ nhạt. - Pháp luật về ĐDSH thời kỳ này chưa đảm bảo tính thống nhất. - Pháp luật về ĐDSH thời kỳ này còn chưa hoàn thiện, thiếu một số quy định quan trọng. Cụ thể: thiếu các quy định về cơ chế tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, quyền đối với tri thức truyền thống của cộng đồng, các quy định về cơ chế kiểm soát các sinh vật lạ xâm hại, các quy định về hình thức bảo tồn ngoại vi,...; các quy định về bảo tồn các loài hoang dã hầu như mới chỉ được đề cập trong các văn bản pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng mà chưa được đề cập trong các lĩnh vực pháp luật khác. 2. Tổng quan pháp luật bảo tồn Đa dạng sinh học của Việt Nam sau khi ban hành Luật Đa dạng sinh học Hệ thống văn bản pháp luật về bảo tồn ĐDSH hiện nay bao gồm: 2.1. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 Như đã phân tích ở phần trên, hệ thống pháp luật về bảo tồn ĐDSH của Việt Nam trong một thời gian dài đã thể hiện những bất cập lớn, chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất,... nên hiệu quả áp dụng chưa cao, dẫn đến việc bảo vệ ĐDSH còn hạn chế, chưa duy trì và phát triển được hệ thống bảo tồn ĐDSH cũng như tính đa dạng trong hệ thống ĐDSH của quốc gia. Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia vẫn chưa được nội luật hóa hoàn toàn vào hệ thống pháp luật trong nước. Với những đòi hỏi về mặt lý luận cũng như thực tiễn như vậy, để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH, luật hóa có hệ thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện các cam kết quốc tế về ĐDSH phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật ĐDSH được Quốc hội nước ta ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008 đã tạo nên một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH, đáp ứng được nhu cầu cấp bách của hoạt động bảo tồn ĐDSH hiện hay và trong tương lai. Luật ĐDSH bao gồm 8 chương với 78 điều luật quy định các vấn đề cơ bản nhất của việc bảo tồn và phát triển ĐDSH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH[12]. Luật ĐDSH năm 2008 được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển lớn của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường[13]. Luật đã hoàn thành nhiệm vụ pháp điển hóa các quy định về bảo vệ ĐDSH được đề cập rải rác trong nhiều lĩnh vực pháp lý thành một lĩnh vực pháp lý cụ thể, độc lập, hỗ trợ và tạo thế cân bằng với lĩnh vực pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Có thể nhận thấy một số điểm sau: - Luật ĐDSH (có hiệu lực từ ngày 01/07/2009) là văn bản đầu tiên và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH trong thời điểm hiện nay.  - Luật ĐDSH 2008 là nền tảng cơ bản về mặt pháp lý cho công tác bảo tồn ở nước ta. - Luật ĐDSH tập trung điều chỉnh các vấn đề: quy hoạch bảo tồn ĐDSH; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật; bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về ĐDSH; cơ chế, nguồn lực bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH. 2.2. Các bộ luật khác có liên quan đến lĩnh vực bảo tồn Đa dạng sinh học - Luật Bảo vệ môi trường năm 2005[14]. - Luật Bảo vệ phát triển rừng năm 2004. - Luật Thuỷ sản năm 2003. - Luật Hải quan năm 2001. - Luật sửa đổi bổ sung Luật Hải quan năm 2005. - Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. 2.3. Các văn bản khác của Chính phủ về bảo tồn Đa dạng sinh học - Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam (Định hướng phát triển bền vững của Việt Nam). - Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. - Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg ngày 31/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động Quốc gia về ĐDSH đến năm 2020 thực hiện Công ước ĐDSH và Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học”. - Quyết định số 845/1995/QĐ-TTg ngày 22/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam”. - Quyết định số 1479/2008/QĐ-TTg ngày 13/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020. - Quyết định số 102/2007/QĐ-TTg ngày 10/07/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tăng cường năng lực quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen đến năm 2020. - Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/10/1992 của HĐBT quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ).  - Nghị định số 86/2005/NĐ-CP ngày 08-7-2005 về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa dưới nước. - Nghị định số 109/2003/N