Đề tài Tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện Luật trong nước - Pháp luật về lao động di trú

Mối quan hệ giữa Luật Quốc gia và Luật Quốc tế là một trong những nội dung nghiên cứu chính của khoa học pháp lý quốc tế. Luật Quốc gia mặc dù ra đời và phát triển trước, ảnh hưởng quyết định đến quá trình xây dựng, phát triển và thực hiện Luật Quốc tế nhưng Luật Quốc tế cũng có tác động trở lại tới Luật Quốc gia. Luật Quốc tế thúc đẩy quá trình phát triển và hoàn thiện của Luật Quốc gia. Pháp luật quốc gia thường được sửa đổi, bổ sung theo hướng phù hợp với các quy phạm pháp luật quốc tế mà quốc gia đó đã tham gia. Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Những quy phạm pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia có ảnh hưởng nhất định tới hệ thống pháp luật trong nước theo hướng tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Với mục đích làm rõ tác động của Luật Quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bài tiểu luận này sẽ tập trung phân tích hệ thống các văn kiện quốc tế, trong khu vực ASEAN và của Việt Nam điều chỉnh tới lĩnh vực người lao động di trú.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2752 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện Luật trong nước - Pháp luật về lao động di trú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Mối quan hệ giữa Luật Quốc gia và Luật Quốc tế là một trong những nội dung nghiên cứu chính của khoa học pháp lý quốc tế. Luật Quốc gia mặc dù ra đời và phát triển trước, ảnh hưởng quyết định đến quá trình xây dựng, phát triển và thực hiện Luật Quốc tế nhưng Luật Quốc tế cũng có tác động trở lại tới Luật Quốc gia. Luật Quốc tế thúc đẩy quá trình phát triển và hoàn thiện của Luật Quốc gia. Pháp luật quốc gia thường được sửa đổi, bổ sung theo hướng phù hợp với các quy phạm pháp luật quốc tế mà quốc gia đó đã tham gia. Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Những quy phạm pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia có ảnh hưởng nhất định tới hệ thống pháp luật trong nước theo hướng tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Với mục đích làm rõ tác động của Luật Quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bài tiểu luận này sẽ tập trung phân tích hệ thống các văn kiện quốc tế, trong khu vực ASEAN và của Việt Nam điều chỉnh tới lĩnh vực người lao động di trú. Bài làm Khái quát chung về lao động di trú Lao động di trú xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhưng phát triển đặc biệt nhanh chóng từ đầu thế kỷ XX đến nay. Theo ước tính cứ 35 người dân trên thế giới thì có một người là lao động di trú. Tổng cộng trên thế giới hiện có khoảng 175 triệu người lao động di trú, chiếm 3% dân số toàn cầu Quyền của người lao động di trú – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội – Nxb Hồng Đức - 2010 . Như một hệ quả của quá trình toàn cầu hoá kinh tế, lao động di trú được dự đoán sẽ trở nên hết sức phổ biến trong thế kỷ XXI. Theo Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc năm 1990 về bảo vệ các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, lao động di trú (migrant worker) là những người đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân. Người lao động di trú có vai trò nhất định vào phát triển kinh tế xã hội của cả nước gửi và nước nhận lao động. Nước gửi thường là những nước có giá nhân công rẻ và đang thừa lao động còn nước nhận lại đang thiếu lao động trong những ngành nghề có mức lương thấp, nặng nhọc, độc hại hoặc bị coi là thấp kém. Do đó việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc vừa giải quyết vấn nạn thấp nghiệp trong nước vừa thỏa mãn nhu cầu về lao động cho những nước nhận. Thêm vào đó, lao động di trú còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả nước nhận và nước gửi. Tuy xuất hiện rất sớm và có vai trò quan trọng như vậy nhưng mãi đến vài thập niên trở lại đây vấn đề người lao động di trú mới được cộng đồng quốc tế quan tâm đến. Trước đây người lao động di trú luôn phải đối mặt với những vấn đề như phân biệt đối xử, kỳ thị, bóc lột, lạm dụng và bi xâm phạm các quyền tự do cơ bản. Ngày nay sau rất nhiều nỗ lực đấu tranh của các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ, những khuôn khổ pháp lý trong nước và quốc tế đang được xây dựng để bảo vệ và thúc đẩy các quyền của nhóm người này. Pháp luật quốc tế về lao động di trú Hiện nay Công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (1990) là văn kiện pháp lý quốc tế đầy đủ và hoàn chỉnh nhất điều chỉnh vấn đề người lao động di trú. Trước nó còn có hai văn kiện khác là Công ước số 97 (1949) và Công ước số 143 (1975) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Tuy nhiên hai công ước này không đề cập đến người lao động di trú bất hợp pháp cũng như gia đình của người lao động di trú. Công ước 1990 lần đầu tiên xây dựng một cách hệ thống và hoàn chỉnh các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ. Bên cạnh các quyền cơ bản của con người về thân thể, danh dự, chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tín ngưỡng, lao động..., người lao động di trú và thành viên gia đình họ còn có một số quyền đặc biệt, xuất phát từ tính chất của lao động di trú như: quyền trở về hoặc ở lại nước xuất xứ của họ vào mọi thời điểm; không phải chịu những biện pháp trục xuất tập thể; có quyền yêu cầu sự hỗ trợ và bảo vệ của cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia gốc; có quyền được hưởng các chế độ về an sinh xã hội, giáo dục, y tế bình đẳng như công dân của quốc gia nơi có việc làm trong một chừng mực; có quyền được tôn trọng bản sắc văn hoá riêng và tự do duy trì cầu nối văn hoá với nước xuất xứ; khi hết thời hạn cơ trú, có quyền mang theo số tiền kiếm được hoặc tiết kiệm được, tài sản và đồ dùng cá nhân. Người lao động di trú và các thành viên gia đình họ nếu là những người ở trong tình trạng hợp pháp thì còn có thêm một số quyền như có quyền tự do đi lại trong lãnh thổ quốc gia nơi có việc làm và tự do lựa chọn nơi cư trú; có quyền lập hội và các nghiệp đoàn tại quốc gia nơi có việc làm nhằm thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích của họ; có quyền tham gia vào các vấn đề công cộng của quốc gia gốc và có quyền bầu cử hoặc được bầu trong các cuộc bầu cử tại quốc gia đó... Ngoài ra còn có những quy định riêng áp dụng đối với một số dạng người lao động di trú cụ thể và các thành viên của gia đình họ như nhân công vùng biển, nhân công theo mùa, nhân công lưu động, nhân công dự án,... Các quốc gia thành viên của công ước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để bảo vệ và thực hiện các quyền của người lao động di trú và thành viên gia đình họ được ghi nhận trong công ước này. Công ước 1990 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú và gia đình họ. Công ước là chuẩn mực chung cho các quy định của pháp luật quốc gia khi điều chỉnh về vấn đề người lao động di trú tại các nước là thành viên của công ước, trong đó có Việt Nam. Pháp luật ASEAN về lao động di trú ASEAN là một trong những khu vực có tỉ lệ người lao động di trú cao nhất trên thế giới. Ở đây có cả những nước xuất khẩu, nước nhận lao động và những nước vừa xuất khẩu vừa nhận lao động. Trong những năm gần đây, Chính phủ các nước ASEAN đã có những nỗ lực to lớn trong việc hoàn thiện pháp luật quốc gia đồng thời xây dựng một khuôn khổ pháp lý chung trong khu vực cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú, phù hợp với nội dung của Công ước 1990 mà hầu hết các nước ASEAN là thành viên.. Những văn kiện quan trọng của ASEAN về người lao động di trú phải kể đến Tuyên bố của ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú; Dự thảo Văn kiện khung của ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di trú. Đây là hai văn kiện quan trọng đánh dấu bước tiến mới của cộng đồng ASEAN trong việc nhận thức tầm quan trọng của người lao động di trú cũng như việc bảo về các quyền của họ. Đồng thời đây là hai văn kiện mang tính định hướng cho quá trình xây dựng và thực hiện các văn kiên khác có liên quan đến vấn đề người lao động di trú. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12 tổ chức tại Cebu, Philippine vào tháng 1/2007 đã nhất trí thông qua Tuyên bố ASEAN về việc Thúc đẩy và Bảo vệ các quyền của người lao động di trú. Tuyên bố này được xây dựng dựa trên những cam kết của các nước ASEAN như Điểm 1.1.4.6 của Kế hoạch Hành động Viên chăn kéo dài sáu năm trong giai đoạn 2004 – 2010 “Xây dựng một văn kiện chung của ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú”. Bên cạnh các nguyên tắc chung nội dung chủ yếu của Tuyên bố, là cụ thể hoá những nghĩa vụ của các nước nhận lao động và các nước gửi lao động và những cam kết chung của ASEAN trong việc bảo về và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú và thành viên gia đình họ đã được ghi nhận trong Công ước 1990. Ra đời sau Tuyên bố của ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú, Dự thảo Văn kiện khung của ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di trú hiện đang là văn kiện pháp lý đầy đủ và hoàn chính nhất trong khu vực ASEAN điều chỉnh về vấn đề này. Kế thừa nội dung của Tuyên bố ASEAN 2007, nội dung của Dự thảo cũng bao gồm các phần chính là Các nguyên tắc chung, Nghĩa vụ của các nước nhận lao động, nghĩa vụ của các nước gửi lao động, các cam kết của ASEAN, ngoài ra còn có một nội dung mới đó là Nghĩa vụ chung của các nước gửi và nhận lao động, đây là một nội dung cần thiết vì để bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú đôi lúc cần có sự hợp tác giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa hai quốc gia gửi và nhận lao động, giữa hai quốc gia đó trước hết cần có sự thống nhất trong cơ chế quản lý vấn đề này. Pháp luật Việt Nam về lao động di trú Nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người lao động, tuy nhiên vẫn là chưa đủ so với lượng lao động dư thừa trong nước do đó Việt Nam hiện vẫn đang là một nước chủ yếu xuất khẩu lao động. Hiện tại lao động Việt Nam đang có mặt ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau và có xu hướng tăng lên nhanh chóng, do đó cần phải tăng cường các văn bản pháp luật, các quy chế để bảo vệ họ. Đặc biệt lao động Việt nam ở nước ngoài vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức như không được trả lương hoặc trả lương không đúng với công sức lao động; thiếu những bảo đảm về an toàn lao động; các quyền chính đáng chưa được bảo vệ; bị hành hạ và lạm dụng, đặc biệt lao động nữ; phải trả phí lao động cao; dễ dàng trở thành nạn nhân của bọn buôn bán người... Cũng với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là cộng đồng các nước ASEAN Việt Nam đang ngày càng quan tâm hơn tới vấn đề này. Sau khi tham gia vào Công ước 1990 và tham gia vào quá trình hoàn thiện pháp luật về người lao động di trú trong khu vực ASEAN, chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cần có một văn bản cụ thể để bảo vệ những người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời chúng ta cũng tiếp thu, học hỏi được rất nhiều từ các văn kiện quốc tế đó. Ngày 1 tháng 7 năm 2007, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chính thức có hiệu lực, thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền của những người lao động. Đây cũng là hệ quả tất yếu sau khi Việt Nam là thành viên của Công ước 1990 về bảo về và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú. Tương tự như định nghĩa trong Công ước 1990, chúng ta có định nghĩa sau về người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được quy định tại khoản 1 Điêu 3: “Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài) là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật này.” Những quyền của người lao động di trú và thành viên gia đình họ trong luật này cũng là sự cụ thể hóa các quyền của họ trong Công ước 1990. Theo luật này, người lao động Việt Nam ở nước ngoài cũng có các quyền tương tự như các quyền được ghi nhận trong Công ước 1990 như hưởng tiền lương, tiền công, thu nhập khác, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác quy định trong các hợp đồng và điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; được doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế; chuyển về nước tiền lương, tiền công, thu nhập và tài sản khác của cá nhân… Bên cạnh sự tiếp thu, luật còn phát triển thêm một số quy định sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như phù hợp với các quy định trước đó của pháp luật Việt Nam như người lao động đi làm việc ở nước ngoài có nghĩa vụ giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; tôn trọng phong tục, tập quán của nước tiếp nhận người lao động; tuân thủ pháp luật Việt Nam;  nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam…Ngoài ra luật còn quy định các quyền và nghĩa vụ riêng đối với từng loại lao động ở nước ngoài như người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp dịch vụ;  theo hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài; người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề... Theo tinh thần của Công ước 1990 và Tuyên bố của ASEAN, luật cũng quy định những cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo các quyền của người lao động di trú Việt Nam được bảo về tốt nhất như các chính sách về dạy nghề, bồi dưỡng, kiến thức cần thiết cho người lao động; chính sách đối với người lao động sau khi về nước. Quan trọng nhất đó là các quy định về quản lý nhà nước đối với vấn đề lao động ở nước ngoài, không chỉ đơn thuần là quản lý đối với người lao động đi làm ở nước ngoài mà còn quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi ra nước ngoài làm việc. Kết luận Như vậy, các văn kiện quốc tế và khu vực nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực lao động di trú. Có thể nói Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cùng với các văn bản hướng dẫn liên quan đã tiếp thu những tư tưởng chủ đạo của Công ước 1990 và các văn kiện khác trong khu vực ASEAN. Hay nói cách khác pháp luật quốc tế về lao động di trú đã tác động tới hệ thống pháp luật quốc gia, buộc hệ thống pháp luật quốc gia phải tự động bổ sung, hòan thiện các quy phạm pháp luật liên quan tới lĩnh vực này. Phụ lục Một số văn kiện quan trọng của quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam liên quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú. Các văn kiện quốc tế Công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990; Nghị định thư về chống buôn bán người di trú qua đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia, 2000; Công ước số 97 của ILO về di trú vì việc làm (sửa đổi), 1949; Công ước số 143 của ILO về lao động di trú (các điều khoản bổ sung), 1975; Khuôn khổ đa chiều về di trú lao động của ILO; Khuyến nghị chung số 26 của Uỷ ban CEDAW về lao động di trú nữ, 2005; Các văn kiện của ASEAN Hiến chương của Hiệp hội các nước ASEAN, 2008; Tuyên bố ASEAN về bảo về và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú, 2007; Thoả thuận hợp tác giữa Ban Thư ký Hiệp hội các nước ASEAN và Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 2007; Dự thảo lần thứ IV Văn kiện khung ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú ở khu vực ASEAN, 2008; Các văn bản pháp luật của Việt Nam Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định của Chính phủ số 126/2007/NĐ – CP ngày 01/08/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT – BLĐTBXH – BTC ngày 04/09/2007 quy định cụ thể về tiền môi giới và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BLĐTBXH – NHNNVN ngày 04/09/2007 quy định việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Thông tư của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội số 21/2007/TTLT – BLĐTBXH ngày 08/10/2007 hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định của Chính phủ số 126/2007/NĐ – CP ngày 01/08/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Luật quốc tế - Nxb Giáo dục – 2010; Quyền của người lao động di trú – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội – Nxb Hồng Đức – 2010; Công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990; Tuyên bố ASEAN về bảo về và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú, 2007; Dự thảo lần thứ IV Văn kiện khung ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú ở khu vực ASEAN, 2008; Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Mục lục
Luận văn liên quan