Đề tài Tại sao lại nói rằng “Quản trị tri thức là chìa khóa thành công trong doanh nghiệp”

Thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế xã hội. Những năm 50 của thế kỷ 19, các nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp. Hoạt động sản xuất phục thuộc và nguồn tài nguyên thiên nhiên mà đa số là các nguồn lực trong sản xuât nông nghiệp. Thế giới đang trở lên “phẳng” hơn bao giờ hết. Những giới hạn về không gian, thông tin đang được sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin .Sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các quốc gia và các tổ chức không còn nằm ở tài nguyên thiên nhiên, khả năng tài chính hay sức mạnh công nghệ mà phụ thuộc vào yếu tố con người mà trong đó nguồn chất xám của họ có vai trò quyết định. Tuy nhiên một quốc gia, một tổ chức phát triển và có trường tồn được hay không lại không phải quyết định bởi có nhiều cá nhân xuất sắc hay không mà được quyết định bởi khả năng sáng tạo, chia sẻ và ứng dụng liên tục các tri thức mới vào việc nâng cao giá trị cho xã hội. Giá trị của sản phẩm ngày nay cũng không còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu mà được quyết định 80 – 90% bởi hàm lượng chất xám, chi phí nghiên cứu, phát triển sản phẩm.

doc25 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3772 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tại sao lại nói rằng “Quản trị tri thức là chìa khóa thành công trong doanh nghiệp”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Tài: Tại sao lại nói rằng “Quản trị tri thức là chìa khóa thành công trong doanh nghiệp” A)Mở Đầu: Thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế xã hội. Những năm 50 của thế kỷ 19, các nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp. Hoạt động sản xuất phục thuộc và nguồn tài nguyên thiên nhiên mà đa số là các nguồn lực trong sản xuât nông nghiệp. Thế giới đang trở lên “phẳng” hơn bao giờ hết. Những giới hạn về không gian, thông tin đang được sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin .Sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các quốc gia và các tổ chức không còn nằm ở tài nguyên thiên nhiên, khả năng tài chính hay sức mạnh công nghệ mà phụ thuộc vào yếu tố con người mà trong đó nguồn chất xám của họ có vai trò quyết định. Tuy nhiên một quốc gia, một tổ chức phát triển và có trường tồn được hay không lại không phải quyết định bởi có nhiều cá nhân xuất sắc hay không mà được quyết định bởi khả năng sáng tạo, chia sẻ và ứng dụng liên tục các tri thức mới vào việc nâng cao giá trị cho xã hội. Giá trị của sản phẩm ngày nay cũng không còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu mà được quyết định 80 – 90% bởi hàm lượng chất xám, chi phí nghiên cứu, phát triển sản phẩm. I)CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Khái niệm tri thức Hiện nay chưa có sự nhất trí về định nghĩa của tri thức. Tri thức được định nghĩa dưới nhiều hình thức Tri thức là (i) chuyên môn và kỹ năng của một cá nhân được hình thành thông qua kinh nghiệm hay giáo dục; bao gồm các kiến thức về lý thuyết hay thực tiễn về một đối tượng. (ii) những hiểu biết về một lĩnh vực cụ thể hay những kiến thức chung bao gồm sự kiện và thông tin. (Oxford English Dictionary) “Tri thức là quá trình năng động của con người trong việc minh chứng các niềm tin cá nhân với những “sự thật””. Nonaka và Takeuchi (1995)  Tri thức được xem như là thông tin nằm trong bộ não của con người: là tập hợp của kinh nghiệm, giá trị, ngữ cảnh của thông tin và các kiến thức chuyên sâu giúp cho việc đánh giá và phối hợp để tạo nên các kinh nghiệm và thông tin mới bao gồm cả sự so sánh, kết quả, liên hệ, và giao tiếp (Davenport and Prusak, 1998; Davenport, 1999). Bộ não con người chuyển đổi thông tin thành các tri thức có giá trị khi nó giúp con người hiểu các khái niêm và khung bằng cách trả lời cho các câu hỏi “How?” (know-how) and “Why?” (know-why) (Stenmark, 2001; Quigley and Debons, 1999; Holsapple and Joshi, 1999). Tri thức là việc sử dụng tối đa thông tin và dữ liệu kết hợp với tiềm năng con người về kỹ năng, trình độ, ý tưởng, mức độ cam kết và động cơ làm việcTri thức là nhận thức, là sự quan thuộc hay hiểu biết thu được qua nghiên cứu hoặc qua kinh nghiệm(Từ điển Di sản Mỹ) 1.2 Khái niệm về quản trị tri thức Có nhiều cách hiểu về quản trị tri thức, dưới đây là một số định nghĩa đã được đưa ra: Theo Wikipedia thì Quản lý tri thức (tiếng Anh: Knowledge management- KM) là thuật ngữ gắn liền với những thông tin được tập hợp, xử lý, lưu trữ, chia sẻ và sử dụng ở hình thức cao hơn là tri thức.Quản lý tri thức trong một tổ chức là tập hợp các quá trình sáng tạo, tập hợp, lưu trữ, duy trì, phổ biến/chia sẻ tri thức. Theo Hiệp hội quản trị tri thức Nhật Bản: Quản trị tri thức là việc kiểm soát và cấu trúc một cách có hệ thống và hiệu quả một cơ chế cho phép sử dụng đúng người vaò đúng công việc vào đúng thời điểm chia sẻ và sử dụng thông tin một cách thông suốt, hướng tới việc đạt mục tiêu của tổ chức. Một cách có hệ thống ở đây có nghĩa là từng bước chọn lọc, tìm hiểu, phân tích và chia sẻ và sử dụng thông tin để tạo ra giá trị Theo Trung tâm Năng suất và Chất lượng Hoa Kỳ(APQC):“Quản lý tri thức là quá trình có hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận, và chuyển tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh tranh, và hoàn thiện.” Quản trị tri thức là quá trình quản lý việc sáng tạo, phổ biến và sử dụng tri thức Quản trị tri thức là việc giám sát tài sản tri thức nhằm làm rõ nguồn tài nguyên độc đáo, những chức năng chủ chốt và những vấn đề tiềm năng ảnh hưởng đến việc đưa tri thức vào sử dụng. Quản trị tri thức giúp bảo vệ nguồn tài sản tri thức khỏi bị suy tàn, tìm kiếm cơ hội củng cố các quyết định, dịch vụ, sản phẩm thông qua việc tăng tri thức, giá trị và mức độ linh hoạt. 1.3 Đặc điểm của quản trị tri thức Quản trị tri thức phải gắn liền với quản trị chiến lược: QTTT cần tiếp cận một cách có hệ thống và mang tính chiến lược gắn kết chặt chẽ với mục tiêu kinh doanh, gắn kết lý luận với thực tiễn. QTTT và công nghệ thông tin: QTTT không phải là CNTT, những tiến bộ của CNTT chỉ hỗ trợ QTTT tốt hơn. Là công cụ lưu giữ và chuyển chở và chia sẻ tri thức. QTTT và văn hoá sáng tạo : Con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng tri thức. Cần phải tạo ra môi trường có văn hoá sáng tạo được chia sẻ, ý tưởng sáng tạo được cổ vũ và ứng dụng. Quản trị tri thức là quản trị nguồn nhân lực: Những vấn đề về con người và học tập là tâm điểm của QTTT. 1.4 Mục tiêu và vai trò của quản trị tri thức đối với doanh nghiệp 1.4.1 Mục tiêu của quản trị tri thức - Biến tri thức tiềm ẩn của mỗi cá nhân thành tri thức của toàn tổ chức. Trong mỗi cá nhân đều tồn tại những tri thức tiềm ẩn,những tri thức đó chưa được khai thác có thể bởi những lí do như doanh nghiệp chưa biết cách khơi gợi nó hoặc do mỗi cá nhân không muốn chia sẻ nó nếu tri thức của họ không được đánh giá đúng và có một sự công nhận về tri thức đó bằng các đãi ngộ với họ.Những tri thức này nếu được chia sẻ sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu của mình một cách tốt nhất bởi.Do vây doanh nghiệp muốn thành công cần chú trọng mục tiêu này - Đưa tiềm năng và trí tuệ của tổ chức đến với mỗi cá nhân, những người hàng ngày phải đưa ra quyết định một công việc và đóng vai trò làm nên thành công của doanh nghiệp Mỗi cá nhân đóng vai trò rất lớn đối với sự thành công của doanh nghiệp,cá nhân là người thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và biến những mục tiêu của chiến lược đó trở thành hiện thực.Để làm được điều này thì trước hết doanh nghiệp phải giúp cho nhân viên của mình hiểu được chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.Thứ hai là cần giúp nhân viên có thể tiếp cận với nguồn tri thức của doanh nghiệp để giúp nhân viên có thể áp dụng nguồn tri thức đó trong công việc.Đây là mục tiêu của quản trị tri thức trong doanh nghiệp là chìa khóa thành công của doanh nghiệp 1.4.2 Vai trò của quản trị tri thức Quản trị tri thức giúp DN: - Luôn luôn đổi mới, tạo ra các ý tưởng mới và khai thác tiềm năng tư duy của tổ chức. - Thu nhận các kinh nghiệm và biến chúng thành những tri thức hiện có thể sử dụng được cho người khác khi cần thiết. - Tạo điều kiện dễ dàng tìm kiếm và sử dụng lại những bí quyết, chuyên môn sâu khi được lưu giữ trong những mẫu hiện hữu hoặc trong tâm trí mọi người. - Thúc đẩy hợp tác, chia sẻ tri thức, học tập suốt đời và tiến bộ liên tục. - Nâng cao chất lượng ra quyết định và chất lượng các hoạt động trí tuệ. - Thấu hiểu giá trị và sự đóng góp của tài sản trí tuệ vào sự tăng trưởng, hiệu quả tổ chức và sức mạnh phát huy động.  Mục đích cuối cùng của quản trị tri thức không phải tạo ra hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Công nghệ thông tin chỉ là một công cụ quan trọng của quản trị tri thức. Kết quả cuối cùng mà quản trị tri thức tạo ra là hình thành nên một tổ chức không ngừng học tập, trong đó có những cá nhân hợp tác chặt chẽ với nhau, không ngừng học hỏi và chia sẻ tri thức nhằm tạo ra một tổ chức trường tồn hay nói cách khác là nâng cao chỉ số thông minh của tổ chức (SI) trong điều kiện môi trường kinh doanh biến động liên tục như ngày nay. Có nhiều quan điểm và nhiều mô hình khác nhau để quản trị tri thức. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của quá trình quản trị tri thức nhắm đến là: sáng tạo, chia sẻ, lưu giữ, phát triển và sử dụng tối ưu nguồn tri thức trong tổ chức/ DN. 1.5 Tại sao doanh nghiệp cần phải Quản trị tri thức? Trong một tổ chức nói riêng và xã hội nói chung, mỗi cá nhân sẽ tự mình hấp thụ thông tin và có những tri thức riêng, không ai giống ai. Tri thức trong đầu của một người (tacit knowledge) chỉ có người đó mới sử dụng được, không ai ở bên ngoài có thể vận dụng tri thức đó. Khi người đó thể hiện tri thức ra bên ngoài (explixit knowledge) dưới dạng thông tin bằng cách viết tài liệu, viết sách, hướng dẫn trực tiếp… người khác mới có thể tiếp nhận và hiểu được tri thức ấy và biến thành tri thức của mình. Điều gì xảy ra nếu một cá nhân làm việc lâu năm, đảm nhận những vị trí quan trọng sau khi tích luỹ một lượng tri thức lớn rời bỏ một tổ chức? Khi một cán bộ cấp cao sắp đến tuổi về hưu thì tổ chức nên mời người cán bộ đó ở lại làm việc thêm, cộng tác hay tuyển nhân trẻ với tri thức mới? Nếu một tổ chức không biết tận dụng và lưu giữ những lượng tri thức của các cá nhân thì tổ chức đó sẽ có nguy cơ bị tổn thất tri thức hoặc “trao tặng” tri thức của mình cho những tổ chức khác.Những lý do sau đây có thể giải thích tại sao doanh nghiệp lại cần phải quản trị tri thức. +)Môi trường kinh doanh luôn thay đổi. +)Cạnh tranh gay gắt,sức ép cạnh tranh. +)Chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn,tốc độ đổi mới sản phẩm đến chóng mặt. +)Trong nhiều ngành công nghiệp,dịch vụ thời gian trên chỉ tính bằng giây,phút. +)Khách hàng có vô số lựa chọn và dễ dàng tìm kiếm các nhà cung ứng khác chỉ trong một khoảnh khắc “click chuột”. +)Doanh nghiệp rơi vào tình trạng khủng hoảng khi cán bộ chủ chốt về marketing,tài chính rời bỏ doanh nghiệp. +)Rất nhiều bí quyết công nghệ bị mất đi khi cán bộ kỹ thuật lành nghề ra đi,phải mất nhiều thời gian để tìm kiếm thông tin về khách hàng mà ta đã có quan hệ từ lâu... +) “Tốt hơn,nhanh hơn,rẻ hơn”là mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong thị trường canh tranh ngày nay. +)Để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa và tiếp tục hoạt động SXKD có hiệu quả các công ty phải giảm thời gian quay vòng vốn. +)Hoạt động với giá trị tài sản và tài nguyên tối thiểu,rút ngắn thời gian phát triển sản phẩm mới,cải tiến các dịch vụ đối với khách hàng ,phân quyền cho nhân viên… Như vậy, doanh nghiệp cần phải quản trị tri thức để có thể tồn tại được trên thị trường và đạt được mục tiêu cuối cùng của mình. II)QUẢN TRỊ TRI THỨC LÀ CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1 Nhu cầu dẫn tới quản trị tri thức 2.1.1 Xuất phát từ nhu cầu nhân sự Từ khía cạnh nhân sự, những nhu cầu về việc tăng việc trao đổi, chia sẻ và sáng tạo trong các nhóm hoạt động gồm nhiều lĩnh vực khác nhau là một trong những lý do chính dẫn tới việc xây dựng quản trị tri thức . 2.1.2 Xuất phát từ nhu cầu kinh tế Quản trị tri thức mang đến cơ hội duy nhất biến tri thức thành hệ thống giúp công ty của bạn tạo ra lợi thế về thời gian giữ cho sự cạnh tranh được liên tục, tạo ra giá trị kinh tế và giá trị thị trường không thể chối cãi được. 2.1.3 Công nghệ và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức Quản trị tri thức, với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể giúp cho nhân viên của công ty làm việc hiệu quả hơn, tự mình đưa ra những quyết định sáng suốt hơn, giảm bớt sai lầm và thoả mãn yêu cầu của khách hàng đúng lúc nhất, v.v. 2.1.4 Cơ cấu tổ chức và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức. Cũng giống như công nghệ, cơ cấu tổ chức ngày nay thay đổi quá nhanh.Chính những thay đổi về cơ cấu tổ chức này đã đặt chúng ta vào tình thế không thể không có một hệ thống quản trị tri thức hữu hiệu.Quản trị tri thức trả lời câu hỏi về tài sản tri thức, về quyền sở hữu, về niềm tin trước và sau khi công việc kết thúc. 2.2.Tầm quan trọng của quản trị tri thức đối với các doanh nghiệp Những giá trị, những lợi thế và sức mạnh cạnh tranh của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp đang dần thay đổi. Thế giới đang ngày càng trở nên phẳng hơn bao giờ hết trong môi trường hội nhập quốc tế. Tuy mới ra đời chỉ hơn 10 năm nhưng Quản trị tri thức đang trở thành xu hướng toàn cầu . +)Quản trị tri thức thực chất là một quá trình thúc đẩy cải tiến, khơi nguồn ý tưởng, khai thác một cách triệt để nguồn tài sản tri thức trong tổ chức, đồng thời là một quá trình chia sẻ, phát triển, lưu giữ tri thức liên tục nhằm cung cấp đúng lúc, đúng nơi và đúng người với mục đích đưa ra những quyết định nhanh chóng tạo nên những bước phát triển đột phá. +)Quản trị tri thức là phương thức tối ưu để ngăn chặn “nạn chảy máu chất xám” trong doanh nghiệp. Với mỗi tổ chức, nhân tài là nguồn tài sản vô giá nhưng cũng đồng thời là một nguồn tài sản đầy biến động. Mỗi khi một nhân viên giỏi ra đi không những gây ra sự xáo trộn mà nguy hiểm hơn tạo ra những khoảng trống không dễ lấp đầy, tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của tổ chức. Họ ra đi mang theo những kinh nghiệm, những bí quyết kinh doanh, những mối quan hệ và rồi trở thành đối thủ cạnh tranh, hoặc bị các công ty cùng lĩnh vực lôi kéo. Nhưng khi áp dụng quản trị tri thức, những tài sản bấy lâu nay nằm trong đầu nhân tài dưới dạng tiềm ẩn sẽ được chuyển sang tri thức hiện hữu qua phương thức chia sẻ và được cấu trúc lại để mọi người có thể học tập. +)Quản trị tri thức là phương thức tạo nên một tổ chức với những cá nhân năng động, một cấu trúc hệ thống học hỏi không ngừng với khả năng thích ứng cao. Vượt qua những giới hạn của phương thức quản trị truyền thống, quản trị tri thức giúp cho mỗi cá nhân trong tổ chức không ngừng học hỏi, biến những nhân viên lười nhác thành những con người sáng tạo tri thức liên tục. +)Quản trị tri thức góp phần nâng cao khả năng ra quyết định của tổ chức. Trong thời đại ngày nay, thông tin không còn là tài sản độc quyền mà khả năng sử dụng và biến thông tin thành tri thức, thành sản phẩm mới là yếu tố tạo nên sự thành công của doanh nghiệp. Cơ hội trong kinh doanh chỉ là một khoảng khắc. Tổ chức nào ra quyết định nhanh nhất và chính xác nhất sẽ là người chiến thắng. Tuy nhiên trong quá trình ra quyết định, đa phần các tổ chức gặp phải vấn đề thiếu thông tin, thiếu cơ sở và thiếu tri thức để ra quyết định. Nhưng với quản trị tri thức tất cả những trở ngại đó sẽ được tháo gỡ. Quyết định là quyết định của tập thể, dựa trên nền tảng tri thức và kinh nghiệm của cả một tổ chức. +)Quản trị tri thức là con đường tốt nhất để biến khách hàng thành những người bạn trung thành của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại là nhờ có khách hàng và với mục đích là phục vụ khách hàng. Nhưng làm thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng? Là câu hỏi không dễ với mọi doanh nghiệp. Khách hàng chỉ thực sự trung thành khi biết mình là một phần quan trọng của doanh nghiệp, là ông chủ thực sự của doanh nghiệp. Trong quản trị tri thức, thông qua mô hình CRM, các mối quan hệ khách hàng của tổ chức được chia sẻ với tất cả các thành viên. Các ý kiến đóng góp của khách hàng về sản phẩm, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp đều được lưu giữ và tôn trọng. Dựa trên nguồn vốn tri thức từ khách hàng đó, doanh nghiệp có cơ sở không ngừng hoàn thiện chất lượng phục vụ khách hàng của mình. +)Quản trị tri thức ngày nay đã trở thành xu hướng tất yếu của lịch sử. 80 – 95% giá trị của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp không còn nằm ở tài sản hữu hình mà ẩn chứa trong nhân tố con người, vốn tri thức và những ý tưởng kinh doanh. Ở Việt Nam khái niệm vốn tri thức, quản trị tri thức tuy còn mới mẻ và chưa được nhận thức đầy đủ nhưng không phải vì thế chúng ta bỏ qua. Thay đổi hay là chết, hội nhập cùng thế giới, áp dụng quản trị tri thức để trường tồn hay trở thành kẻ bật bãi là sự lựa chọn của mỗi doanh nghiệp Việt Nam. 2.3 Thực trạng quản trị tri thức tại tập đoàn FPT 2.3.1 Khát quát về FPT Công ty Cổ phần FPT (FPT Corporation), thành lập ngày 13/9/1988, đã liên tục phát triển và trở thành tập đoàn công nghệ thông tin và viễn thông hàng đầu Việt Nam. Từ lâu, hình ảnh FPT đã gắn với một môi trường trẻ, đoàn kết, năng động, nơi mà mỗi thành viên đều có thể phát huy tính sáng tạo, kỹ năng tổ chức trong mọi hoạt động công việc. FPT là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở Việt Nam chú trọng việc xây dựng văn hoá công ty. Với thành phần ban lãnh đạo đa phần là các nghiên cứu sinh ở Liên Xô, họ đã mang vào công ty không khí sáng tạo. Không  khí này đã giúp FPT tạo được môi trường làm việc hoà đồng, thân thiện, kích thích sáng tạo, dám nghĩ dám làm của các thành viên trong công ty. 2.3.2 Thành công trong việc áp dụng quản trị tri thức tại FPT 2.3.2.1 Công cụ quản trị tri thức trong công ty FPT Là một công ty cổ phần, quản lý theo mô hình tập đoàn, bao gồm nhiều công ty thành viên và chi nhánh, vấn đề quản trị doanh nghiệp (DN) trở thành yêu cầu hàng đầu của công ty Cổ Phần Phát Triển Đầu Tư Công Nghệ FPT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Năm 2000, sau khi đạt chứng chỉ ISO, FPT chính thức đặt mục tiêu xây dựng hệ thống quản trị DN (ERP - Enterprise Resource Planning). Hệ thống ERP được FPT chọn ban đầu là giải pháp Solomon sau đó là Oracle. ERP được FPT triển khai trước tiên tới bộ phận kinh doanh. Những năm tiếp theo được áp dụng cho hệ thống sản xuất và lắp ráp máy tính FPT-Elead, các bộ phận QL như: quản trị nhân sự và tiền lương, QL cổ đông, QL hệ thống chất lượng, QL sản xuất dự án PM, QL bảo hành, QL đơn đặt hàng và giao nhận hàng xuất nhập khẩu. Cuối cùng FPT tự xây dựng một hệ thống báo cáo với hơn 400 báo cáo mẫu phục vụ công tác QL và hỗ trợ ra quyết định, triển khai cho cả tập đoàn gồm tổng công ty và các đơn vị thành viên. Hiệu quả Tại FPT, ERP đã giúp cải thiện rất nhiều quá trình kiểm soát tài chính về hàng tồn (linh kiện lắp ráp), công nợ qua các chỉ tiêu, đồng thời cung cấp nhanh chóng và chính xác các đơn hàng và số liệu hạch toán. Quan trọng nhất là ERP hỗ trợ rất nhiều cho việc lập kế hoạch kinh doanh và ra quyết định. Một ví dụ cụ thể: sau khi áp dụng phân hệ QL sản xuất cho hệ thống sản xuất lắp ráp máy tính, tỷ lệ giao hàng đúng hạn trong 6 tháng đầu năm 2004 là 94,9% (tăng 18,5% so với năm 2003); số ngày trung bình tồn linh kiện lắp ráp là 43% (giảm 25% so với năm 2003). FPT đã có hơn 83 bộ sổ kế toán cho 83 đơn vị hạch toán. Lãnh đạo có thể theo dõi, ghi nhận, kiểm soát doanh thu, chi phí, hoạt động kinh doanh …theo ngày, tuần, tháng ở bất kỳ thời điểm nào. Chỉ trong ba ngày hệ thống có thể tạo lập một bộ sổ kế toán cho một đơn vị mới, 8 ngày có thể có được báo cáo tháng, quý toàn tập đoàn (trước đây cũng cùng thời gian này nhưng FPT có ít đơn vị hơn.) Tháng 2/2009 sẽ có báo cáo kiểm toán năm 2008, 300 người dùng trên toàn quốc có thể truy cập vào hệ thống cunghf lúc; hàng nghìn giao dịch được thực hiện mỗi ngày…Đó là những giá trị rất lớn mà hệ thống ERP đã mang lại. Việc áp dụng ERP trên thực tế đã có tác động sâu rộng tới bộ máy điều hành và từng đơn vị tác nghiệp của FPT. ERP đã làm thay đổi cách thức tác nghiệp, QL, tạo nên thói quen dùng số liệu để điều hành và ra quyết định ở tất cả các cấp trong công ty. Hiện nay, hệ thống không chỉ đáp ứng tốt công tác báo cáo tài chính - kế toán của từng đơn vị thành viên mà còn đáp ứng cả báo cáo hợp nhất của tập đoàn. Tại Việt Nam, hiện nay có lẽ chỉ FPT làm được báo cáo hợp nhất toàn tập đoàn từ hệ thống ERP. 2.3.2.2 Quản lý lao động tri thức trong công ty FPT FPT tôn trọng nhân bản và những giá trị vĩnh cửu. Niềm tin vào những giá trị đó xác định phương thức hành động của người FPT trong mọi hoàn cảnh khác nhau. FPT tin tưởng sắt đá vào sự nghiệp chính nghĩa: nỗ lực lao động, sáng tạo trong KHKT và Công nghệ để góp phần phát triển cá nhân, tập thể, đất nước, xây dựng Công ty phát triển và trường tồn. Tôn trọng con người và tài năng cá nhân Mục tiêu của Công ty là nhằm “đem lại cho mỗi thành viên của mình điều kiện phát triển đầy đủ nhất về tài năng, một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần”. Truyền thống tôn trọng con người, tài năng cá nhân đã tạo nên một không khí làm việc dân chủ và sáng tạo, cùng chung một mục đích, chung một lý tưởng. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là phương châm làm việc của các thành viên FPT. Trí tuệ tập thể Ở FPT không có những quyết định được ra một mình, không có chỗ cho những nhà độc tài. Bạn phải ra quyết định một cách nhanh chóng
Luận văn liên quan