Đề tài Tế bào gốc - Tế bào mầm

Tế bào gốc là tế bào có khả năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể. Là một công cụ trong "hệ thống sửa chữa" của cơ thể, khi được đưa vào các bộ phận khác nhau, tế bào gốc có thể phân chia không giới hạn để lấp đầy những thiếu hụt tế bào của bộ phận đó chừng nào cơ thể còn sống. Tế bào gốc có thể trở thành tế bào cơ, hồng huyết cầu, tế bào não. Tế bào gốc có 2 đặc điểm quan trọng tạo nên sự khác biệt với các loại tế bào khác. Thứ nhất, tế bào gốc là loại tế bào không chuyên dụng nên có thể tự tái tạo trong một thời gian dài nhờ quá trình phân chia. Thứ hai, trong môi trường sinh lý hoặc thí nghiệm nhất định, tế bào gốc có thể biến đổi trở thành tế bào chuyên dụng như tế bào gây đập của cơ tim hoặc tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy.

doc23 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3641 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tế bào gốc - Tế bào mầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG NGHỆ SINH HỌC Đề Tài : Tế Bào Gốc - Tế Bào Mầm Người Hướng Dẫn : Pgs. Ts Nguyễn Bá Lộc Người Thực Hiện : Phạm Văn Thương KXX – Động Vật Học Huế, tháng 4 - 2012 MỤC LỤC I.tổng quan về tế bào gốc 3 1.1 khái niêm tế bào gốc 3 1.2 lược sử hình thành 3 1.3 phân loại tế bào gốc 5 II.một số ứng dụng của tế bào gốc 8 Ghép tế bào gốc trị liệu (stem cell therapy): 8 Công nghệ mô (tissue engineering) 9 2.3 Các ứng dụng tế bào gốc phôi không liên quan đến ghép 10 2.4 Tế bào gốc tạo máu 11 2.5 Các nguồn lấy tế bào gốc tạo máu: 12 2.6 Các ứng dụng lâm sàng của tế bào gốc tạo máu 12 2.7 Điều trị các bệnh lý ở cơ quan khác (nhồi máu cơ tim, Parkinson…) 13 III. nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc 13 1. Thành phần môi trường 13 2. Kỹ thuật nuôi cấy 13 3 .Một số quy trình thu nhận và nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc 15 3.1 Thu nhận và nuôi cấy tế bào gốc từ tủy xương chuột 15 3.2 Quy trình thu nhận tế bào gốc từ máu cuống rốn 16 3.3 Nghiên cứu nuôi cấy, biệt hóa tế bào gốc sinh tinh từ bệnh nhân azoospermia 16 3.4 Thu nhận và biệt hóa tế bào gốc trung mô từ cuống dốn của người .20 3.5 Giai đoạn 2, nuôi cấy thứ cấp: cấy chuyền tăng sinh MSC 21 3.6.Biệt hoá MSC 21 3.7 .Biệt hóa MSC thành tế bào tạo mỡ (adipocyte) 21 3.8 Biệt hoá MSC thành nguyên bào xương (Osteoblast) 22 IV kết luận 22 Tài liệu tham khảo: 23 I.tổng quan về tế bào gốc 1.1 khái niêm tế bào gốc Tế bào gốc là tế bào có khả năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể. Là một công cụ trong "hệ thống sửa chữa" của cơ thể, khi được đưa vào các bộ phận khác nhau, tế bào gốc có thể phân chia không giới hạn để lấp đầy những thiếu hụt tế bào của bộ phận đó chừng nào cơ thể còn sống. Tế bào gốc có thể trở thành tế bào cơ, hồng huyết cầu, tế bào não... Tế bào gốc có 2 đặc điểm quan trọng tạo nên sự khác biệt với các loại tế bào khác. Thứ nhất, tế bào gốc là loại tế bào không chuyên dụng nên có thể tự tái tạo trong một thời gian dài nhờ quá trình phân chia. Thứ hai, trong môi trường sinh lý hoặc thí nghiệm nhất định, tế bào gốc có thể biến đổi trở thành tế bào chuyên dụng như tế bào gây đập của cơ tim hoặc tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy. 1.2 lược sử hình thành Các tế bào gốc được tìm thấy trong cơ thể của mọi sinh vật sống. Những tế bào này làm phát sinh các tế bào mà nhiều người khác phân biệt thành các loại tế bào đặc biệt. Năm 1960, Ernest A. McCulloch và James E. Till cho thấy hai loại tế bào gốc động vật có vú. Tế bào gốc phôi được tách ra từ khối tế bào của blastocysts, trong khi các tế bào gốc người lớn được tìm thấy trong các mô chỉ dành cho người lớn Trong phôi thai đang phát triển, các tế bào gốc, được thừa kế, biệt hóa thành các mô phôi thai. Trong khi người lớn tế bào gốc giúp sửa chữa các bộ phận của cơ thể bên cạnh tiền thân. Vai trò cơ bản của tế bào gốc người lớn là để sản xuất một hệ thống sửa chữa, bổ sung các tế bào đặc biệt và duy trì năng suất của các cơ quan được tái sinh trong tự nhiên. Các tế bào gốc trưởng thành và thay đổi thành tế bào chuyên giúp cho việc tạo ra các tế bào của cơ bắp khác nhau và các mô thần kinh. Tủy xương và máu dây rốn được sử dụng trong liệu pháp tế bào gốc người lớn đàn hồi. Trong những năm 1800, các chuyên gia y tế đến để biết rằng một số tế bào có thể tạo ra các tế bào khác và trong những năm 1900, nó đã chứng minh rằng tế bào gốc có thể tạo ra tế bào máu, ngay cả. Các chuyên gia cấy ghép tủy xương vào một bệnh nhân có bệnh bạch cầu. Mặc dù, nó đã không thành công nhưng nó thúc đẩy các chuyên gia để thực hiện cấy ghép thành công tủy xương ở người. Nó đã được thực hiện tại Pháp vào những năm 1950. Jean Dausset nói rằng các protein trên bề mặt của tế bào đã được bạch cầu hoặc kháng nguyên HLA. Với sự trợ giúp của kháng nguyên HLA, hệ thống miễn dịch xác định tình trạng lành mạnh của các tế bào và đồ đạc của họ. Trong thập niên 1960, cấy ghép các tế bào đã được thực hiện giữa anh chị em ruột. Sau này, các quốc gia Organ Transplant Act năm 1984 và quốc gia tài trợ Chương trình tủy thực hiện nó. Hơn 16.000 cấy ghép được thực hiện trong thời gian này, và nó đã được tìm thấy nó chữa các bệnh như immunodeficiencies, dể băng huyết bệnh bạch cầu và ung thư máu hoặc. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi cũng được nâng lên về tế bào gốc, đặc biệt là ưu và nhược điểm của họ. Các tế bào gốc là những tế bào không chuyên mà làm phát sinh các tế bào nhiều chuyên ngành. Những tế bào từ phôi thai hoặc thai nhi được coi là tốt nhất vì chúng làm tăng mức độ thành công so với các tế bào gốc lấy từ trẻ em hoặc người lớn. Tuy nhiên, các tế bào gốc ở người lớn có thể được nhận từ tủy xương. Những tế bào gốc được cấy ghép vào bệnh nhân và tạo thuận lợi cho sản xuất các loại tế bào máu. Nó được xem là tốt nhất trong trường hợp bệnh bạch cầu, các loại ung thư hạch được lựa chọn, thiếu máu Aplastic, thalassemia, thiếu máu tế bào hình liềm, và các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh nhất định hoặc suy giảm miễn dịch như bệnh granulomatous mãn tính. Người có tủy xương có một lỗi do bất cứ lý do cũng có thể được cấy ghép với các tế bào gốc. Nó cũng rất hữu ích trong điều trị các bệnh như Parkinson và Alzheimer. Các tế bào gốc của chính người được sử dụng, nó được gọi là cấy ghép autologus và khi các tế bào gốc được lấy từ một người nào khác, nó được gọi là cấy ghép allogeneic. Trong autologus, tế bào gốc được thu thập trước khi hóa trị liệu là điều trị có thể thiệt hại các tế bào. Sau khi điều trị, họ lại tiêm vào cơ thể. Trong trường hợp cấy ghép tủy xương, các nhà tài trợ được tiêm một tủy gây mê và sau đó được lấy ra từ xương hông với sự giúp đỡ của các ống tiêm. Quá trình này mất gần một giờ. Trong allogenic, tế bào gốc có thể được thu được từ máu. Người được tặng được cho một loại thuốc mà bản tế bào gốc vào mạch máu và sau đó với sự giúp đỡ của ống thông máu được lấy ra khỏi cánh tay. Những tế bào gốc chiết xuất này sau đó được tiêm vào tĩnh mạch của người nhận và họ giúp đỡ trong nhân tế bào máu. Nó mất khoảng 2-4 giờ sáu phiên trong quá trình 1-2 tuần. Tuy nhiên, các tế bào gốc cũng có thể được bảo quản bằng đông lạnh để sử dụng sau này. Cấy ghép tế bào gốc là nguy hiểm từ điểm nhìn của nhiễm trùng. Các vấn đề của tham nhũng-so-host bệnh trong đó các tế bào thu được tấn công các tế bào của bệnh nhân cũng tồn tại. Tuy nhiên, nó có thể tránh được đến mức độ nào đó bằng cách duy trì vệ sinh xung quanh bệnh nhân. Bệnh nhân chủ yếu là ở lại bệnh viện khoảng 1-2 tháng. Sau khi nhận được thải ra, họ nên đến các bác sĩ cho kiểm tra thường xuyên. Thống kê của cấy ghép tế bào gốc cho thấy tám triệu người trên toàn cầu và bốn triệu người ở Mỹ đã đăng ký bản thân như các nhà tài trợ cho các tế bào gốc. 1.3 phân loại tế bào gốc Chúng ta có thể phân loại và gọi tên “tế bào gốc”theo một số cách sau. a. Theo tiềm năng biệt hóa: - Tế bào toàn năng(totipotent cell):hợp tử, hay Blastomere Là tế bào có khả năng phân chia và biệt hoá thành tất cả các tể bào của cơ thể, có khả năng biệt hoá thành cơ thể hoàn chỉnh. Vd: -Một cành cây có thể phát triển thành một cây hoán chỉnh. -Ở người,Tinh trùng thụ tinh với trứng tạo thành một totipotent cell(hợp tử),vài giờ đầu sau khi thụ tinh , tế bào này phân chia tạo thành những totipotent giống hệt nhau. _ Tế bào Vạn năng(Pluripotent cell): khối tế bào bên trong của Blastocyst Là tể bào có khả năng bịêt hoá thành tẩt cả các tể bào ngoại trừ tế bào phôi. _ Tế bào đa năng (multipotent): Tế bào gốc tạo máu Tương tự như tế bào Vạn năng, thật sự khó có cơ chế chính xác phân biểt hai loại tế bào này _ Ngoài ra còn có một số tế bào gốc vài năng , cũng như đơn năng vd : tế bào gốc tuỷ xương tạo ra các loại tế bào máu. Cơ chất dưỡng bào( Mast cell precursor) chỉ bịêt hoá cho ra dưỡng bào. b. Theo nguồn gốc : _ Tế bào gốc phôi( Embryonic stem cell): được thu nhận từ phôi giai đọan blastocyst. Chúng là khối tế bào bên trong của Blastocyst còn gọi là lớp sinh khối bên trong(ICM_Inner mass cell). Nó tương ứng với tế bào vạn năng theo cách phân loại( 1) _ Tế bào mầm(Embryonic germ cell): Là những tế baò gốc được thu nhận từ rãnh sinh dục, vị trí là tiển thân của cơ quan sinh dục sau này, các tế bào này được chứng minh là vạn năng. _ Tế bào khối u(Embryonic carcinomas): Được thu nhận từ khối u trong tinh hoàn và buồng trứng của chuột, những tế bào này được nuôi cấy nhưng những tế bào gốc phôi. _ Tế bào gốc trưởng thành : chỉ chung những loại tế bào chưa chuyên hoá, được tìm thấy trong những mô ở cơ thể trưởng thành, có thể tự đổi mới và biệt hoá thành những tế bào chuyên biệt từ nguồn gốc của nó. Những tế bào loại này được đặt tên theo nơi hiện diện: tế bào gốc tuỷ xương, tế bào gốc biểu bì,… c. Theo kiểu biệt hoá: Vd: tế bào gốc cơ tim là tế bào sẽ biệt hoá thành tế bào cơ tim, tế bào gốc xương là những tế bào biệt hoá thành những tế bào xương,… Nhưng có một số tác giả cho rằng cách gọi tên này không thật hợp lí vì các tế bào trên( theo họ) là những tế bào tiền thân( progeneotor cell) hay cơ chất( pecuor cell) không phảỉ là những tế bào gốc thực thụ. Nhưng nếu theo cách phân loại theo tiềm năng biệt hóa thì ta cũng có thể xem những tế bào này là những tế bào gốc một năng(unipotent cell). Vậy thật sự tế bào mầm là một trong những loại tế bào gốc , xét về tiềm năng biệt hoá nó không khác gì tế bào gốc phôi(đều là pluripotent cell) Phân biệt tế bào mầm (Embryonic germ cells) và tế bào gốc (Embryonic stem cells) Tế bào mầm là một trong những loại tế bào gốc, xét về tiềm năng biệt hoá nó không khác gì tế bào gốc phôi (đều là tế bào gốc đa năng (Pluripotent cells). Tế bào mầm (Germ Cells) là khái niệm để chỉ các tế bào thuộc dòng sinh dục (Germline). Tế bào gốc phôi (Embryonic stem cells) và tế bào mầm phôi (Embryonic germ cells) thì khác nhau ở nơi thu nhận và kiểu tế bào biệt hoá. Thứ nhất, về nơi thu nhận, tế bào gốc phôi được thu nhận ở phôi từ giai đoạn phôi nang (blastocyst) trở về trước còn tế bào mầm phôi được thu nhận từ rãnh sinh dục của phôi (genital ridge). Thứ hai, về kiểu tế bào biệt hóa thì tế bào gốc phôi sẽ biệt hóa thành 3 lớp phôi (germ layers) và biệt hóa thành hơn 200 loại tế bào của cơ thể trừ các tế bào nhau thai và cuống rốn. Còn tế bào mầm phôi thì sẽ biệt hóa thành các tế bào sinh dục.  II.một số ứng dụng của tế bào gốc 2.1 Ghép tế bào gốc trị liệu (stem cell therapy): Là dùng tế bào gốc để thay thế, sửa chữa các phần cơ thể bị bệnh và tổn thương bằng các tế bào mới khỏe mạnh. Kỹ thuật này còn được gọi là kỹ thuật ghép tế bào trị liệu (cell transplantation therapy) hay kỹ thuật thay thế tế bào trị liệu (cell replacement therapy). 2.1.1 Quy trình ứng dụng tế bào gốc trị liệu bao gồm các khâu sau: Sản xuất dòng tế bào gốc: Thu tế bào gốc: từ phôi hoặc từ tổ chức trưởng thành. Nuôi cấy các tế bào gốc này trong labo nhằm nhân lên về mặt số lượng. Với tế bào gốc phôi, cần nuôi cấy nhân tạo trong các điều kiện môi trường lý hóa thích hợp để định hướng biệt hóa thành các tế bào mong muốn. Ghép tế bào gốc, đưa các tế bào gốc này vào các khu vực tổn thương cần sửa chữa. 2.1.2 Ứng dụng tế bào gốc trưởng thành trong điều trị: Trên lâm sàng, tế bào gốc trưởng thành đã được sử dụng trong điều trị các bệnh tự miễn, tai biến mạch máu não, suy giảm miễn dịch, thiếu máu, nhiễm Estein-barr virus, tổn thương giác mạc, các bệnh máu và bệnh gan, tạo xương không hoàn chỉnh, tổn thương tủy sống, liền vết thương da, điều trị ung thư (kết hợp với hóa chất và tia xạ), u não, u nguyên bào võng mạc, ung thư buồng trứng, các khối u đặc, ung thư tinh hoàn, đa u tủy, lơ-xê-mi, ung thư vú, u nguyên bào thần kinh, u lympho Non-Hodgkin, carcinoma tế bào thận, tái tạo cơ tim sau cơn đau tim, đái đường type I, tổn thương xương và sụn, bệnh Parki 2.1.3 Ứng dụng tế bào gốc phôi trong điều trị Tuy có nhiều triển vọng, hiện nay các tế bào gốc phôi chưa được dùng trong tế bào gốc trị liệu trên người. Các bệnh có thể được điều trị bằng ghép các tế bào có nguồn gốc từ tế bào gốc phôi người bao gồm bệnh Parkinson, đái đường, chấn thương tủy sống, suy tim… Vấn đề là khi điều trị cho các bệnh này yêu cầu các tế bào gốc phôi phải được định hướng biệt hóa thành các chủng loại tế bào đặc thù trước khi ghép. Một ưu điểm của dùng tế bào gốc phôi so với tế bào gốc trưởng thành là các tế bào gốc phôi có khả năng tăng sinh không giới hạn trên in vitro và có khả năng sinh ra nhiều chủng loại tế bào hơn khi được định hướng biệt hóa. Ưu thế này sẽ tăng lên nếu như trong quá trình ghép tế bào/mô, các tế bào gốc phôi không gây kích hoạt quá trình thải ghép do miễn dịch. Có thể tránh tính sinh miễn dịch của các tế bào phát triển từ tế bào gốc phôi người bằng chuyển gen cơ thể nhận vào các tế bào gốc phôi làm cho chúng mang các phân tử kháng nguyên hòa hợp tổ chức (MHC) lớp I của cơ thể nhận, hoặc bằng kỹ thuật chuyển nhân để tạo ra các tế bào gốc phôi đồng nhất về gen với người nhận mô ghép. Nhược điểm của dùng tế bào gốc phôi cho ghép trị liệu là dễ hình thành các khối u teratoma. Điều này làm cho tế bào gốc phôi chưa được sử dụng trong ghép tế bào gốc trị liệu trên lâm sàng. Hiện đã có một số phương pháp nhằm loại bỏ các tế bào gốc phôi không biệt hóa trước khi ghép cho phép có thể tránh việc hình thành các khối u teratoma trên cơ thể nhận. Công nghệ mô (tissue engineering) Có thể coi công nghệ mô là một ứng dụng của tế bào gốc trị liệu. Các tiến bộ gần đây trong nghiên cứu công nghệ mô và tế bào gốc cho thấy có thể thiết lập tế bào thành các cấu trúc không gian ba chiều dùng để sửa chữa mô tổn thương. Sửa chữa tổ chức bằng công nghệ mô có thể được thực hiện bằng cách nuôi cấy tế bào gốc và sau đó ghép vào mô tổn thương. Trong công nghệ mô có thể sử dụng tế bào gốc trưởng thành để phát triển thành mô ghép hoặc có thể dùng tế bào gốc phôi tạo ra trong kỹ thuật nhân bản phôi vô tính để sản xuất ra các mô ghép phù hợp về mặt miễn dịch (sơ đồ B). Một hướng khác có khả năng tạo ra mô ghép phù hợp với bệnh nhân từ nguồn tế bào gốc phôi là dùng kỹ thuật chỉnh sửa gen mã hóa phân tử hòa hợp tổ chức chính (MHC) (sơ đồ A) Các ứng dụng tế bào gốc phôi không liên quan đến ghép: Các ứng dụng không liên quan đến ghép chủ yếu được thực hiện trên tế bào gốc phôi. Có thể kể đến một số ứng dụng sau: Nghiên cứu những sự kiện sớm xảy ra trong quá trình phát triển phôi thai người như các nguyên nhân có thể gây sinh ra trẻ dị tật bẩm sinh và các bất thường nhau thai dẫn đến sảy thai. Khám phá ảnh hưởng của các bất thường chrosome trong giai đoạn sớm của quá trình phát triển. Ảnh hưởng này có thể là sự hình thành sớm các khối u ở trẻ em mà qua nghiên cứu người ta thấy rằng các tế bào khối u này chủ yếu có nguồn gốc từ phôi. Thử nghiệm các thuốc điều trị. Hiện nay trước khi thử một thuốc mới trên người tình nguyện, thuốc đó phải được qua thử nghiệm tiền lâm sàng. Trong thử nghiệm tiền lâm sàng có sàng lọc thuốc trên các mô hình động vật – ví dụ các thử nghiệm trên in vitro có dùng tế bào chuột, hoặc các thử nghiệm in vivo liên quan đến việc đánh giá độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của thuốc. Mặc dù các nghiên cứu dược lấy phương pháp thử nghiệm trên các mô hình động vật làm căn bản, biện pháp này không phải lúc nào cũng cho phép phỏng đoán chính xác các tác dụng có thể có của thuốc trên các tế bào người. Vì lý do này việc nuôi cấy tế bào người thường được sử dụng trong các thử nghiệm tiền lâm sàng. Các dòng tế bào người này thường được duy trì in vitro trong thời gian dài và như vậy thường mang các đặc tính biệt hóa hơn các tế bào trong cơ thể. Các khác biệt này có thể gây khó khăn trong việc phỏng đoán tác dụng của thuốc trong cơ thể nếu chỉ dựa trên các đáp ứng của các dòng tế bào người trên in vitro. Chính vậy nếu các tế bào gốc phôi có thể được định hướng biệt hóa thành các loại tế bào đặc thù cho sàng lọc thuốc, các tế bào đặc thù này có lẽ sẽ mô phỏng tốt hơn đáp ứng của các tế bào/mô trong cơ thể với thuốc và như vậy cũng cung cấp các mô hình sàng lọc thuốc an toàn, kinh tế và hiệu quả hơn. Sàng lọc các chất có khả năng gây độc. Lý do sử dụng tế bào gốc phôi người trong sàng lọc độc chất cũng giống như lý do dùng chúng vào việc thử thuốc như đã nêu trên. Độc chất thường có tác dụng khác nhau trên các loài động vật khác nhau, điều này nói lên tầm quan trọng cần có các mô hình in vitro phù hợp nhất cho đánh giá tác dụng của độc chất trên các tế bào người. Nghiên cứu các phương pháp mới về công nghệ gen (genetic engineering). Hiện tại việc chỉnh sửa gen cho các tế bào gốc phôi chuột trên in vitro có thể được thực hiện một cách dễ dàng nhờ các kỹ thuật như kỹ thuật tái tổ hợp gen. Đây là một phương pháp thay thế hoặc thêm các đoạn gen, bằng cách này các phân tử DNA mong muốn được đưa vào bộ gen và sau đó đặc tính được biểu hiện. Dùng phương pháp này có thể đưa vào dòng tế bào gốc phôi các gen định hướng tế bào gốc phôi biệt hóa thành các tế bào đặc thù hoặc các gen giúp cho tế bào bộc lộ các sản phẩm protein mong muốn. Về cơ bản, nếu các kỹ thuật đó có thể phát triển với các tế bào gốc phôi người, nó có lẽ là cuộc cách mạng trong công nghệ gen và tế bào gốc trị liệu. 2.4 Tế bào gốc tạo máu Tế bào gốc tạo máu được xếp vào loại tế bào gốc trưởng thành. Đây là các tế bào được tách ra từ máu hoặc tủy xương, chúng có khả năng tự tái tạo (self renew), có thể biệt hóa thành các tế bào đặc thù, có thể di chuyển từ tủy xương vào máu, và có thể trải qua quá trình apoptosis để loại bỏ đi các tế bào không cần thiết. Các nghiên cứu cơ bản về tế bào gốc tạo máu nở rộ vào những năm 1960. Trong thời gian này các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy có hai loại tế bào gốc tạo máu. Hai loại này về thực chất chính là hai giai đoạn biệt hóa khác nhau của tế bào gốc tạo máu: Các tế bào gốc tạo máu dài hạn (long-term hematopoietic stem cells): đây là các tế bào gốc tạo máu ít biệt hóa hơn, nói cách khác là “non” hơn, có khả năng tự tái tạo và tính đa năng cao. Trên thực nghiệm các tế bào này có thể khôi phục hoàn toàn chức năng tạo máu của chuột bị chiếu xạ liều chí tử sau vài tháng. Một ví dụ về tế bào gốc tạo máu dài hạn là các tế bào gốc tạo máu mang CD34+, tế bào này có thể biệt hóa thành tất cả các chủng loại tế bào máu khác nhau. Trong điều kiện bình thường, các tế bào gốc tạo máu dài hạn có khả năng tự tái tạo trong suốt đời sống cá thể. Hiện nay thuật ngữ “tế bào gốc tạo máu” thường được dùng để đề cập tới loại tế bào gốc tạo máu dài hạn này. Các tế bào định hướng/tiền thân ngắn hạn (short-term progenitor or precursor cell): đây là các tế bào tạo máu đã khá trưởng thành, không mang CD34, là tiền thân của các tế bào đã biệt hóa đầy đủ của cùng một loại dòng tế bào máu, ví dụ tế bào định hướng dòng hồng cầu, tế bào định hướng dòng lympho, mẫu tiểu cầu…. Các tế bào định hướng/tiền thân ngắn hạn cũng có khả năng tăng sinh, biệt hóa thành các tế bào máu nhưng so với các tế bào gốc tạo máu dài hạn chúng có giới hạn về tính đa năng. Ví dụ một tế bào tiền thân hồng cầu có lẽ chỉ có thể tạo thành một tế bào hồng cầu. 2.5 Các nguồn lấy tế bào gốc tạo máu: Tủy xương: Là nguồn truyền thống để lấy tế bào gốc tạo máu. Người hiến tế bào gốc được gây mê, chọc và hút tủy xương ở vùng xương chậu. Mật độ tế bào gốc trong tủy xương không nhiều, trung bình trong 100,000 tế bào tủy xương có một tế bào gốc tạo máu, các tế bào khác là tế bào thân, tế bào gốc thân, tế bào định hướng dòng máu và các tế bào hồng cầu, bạch cầu trưởng thành Máu ngoại vi: Là một nguồn lấy tế bào gốc tạo máu dùng cho điều trị. Với mục đích ghép tế bào gốc tạo máu trên lâm sàng, vì lý do an toàn và sự thuận lợi của kỹ thuật, lấy tế bào gốc tạo máu từ máu ngoại vi thường được thực hiện nhiều hơn lấy từ tủy xương. Bình thường trong máu ngoại vi chỉ có một lượng ít tế bào gốc tạo máu và tế bào máu tiền thân. Để huy động các tế bào này từ tủy xương vào máu, cần tiêm cho người hiến tế bào gốc các cytokine như yếu tố kích thích quần thể tế bào hạt (G-CSF) vài ngày trước khi thu tế bào gốc. Thu tế bào gốc tạo máu được thực hiện bằng cách đưa một ống vào trong ven người cho và cho dòng máu đi qua một hệ thống lọc, hệ thống này cho phép lấy ra các tế bào CD34+ và đưa trở lại cơ thể các tế bào máu khác. Khoảng 5-20% lượng tế bào