Đề tài Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing

Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp các nẻo đường gần xa khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người đang tham gia giao thông, hãy nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình mình, góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó còn tăng lên rất nhiều mà phần lớn nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn là do ý thức , thái độ chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người còn hạn chế như: uống rượu bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ. Thống kê còn cho thấy, khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hai cơ quan này cảnh báo, nếu chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn tình trạng này thì đến năm 2020, tai nạn giao thông sẽ đứng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở người. Ở Việt Nam, hằng năm có 12.000 người thiệt mạng vì an toàn giao thông và 30.000 người khác tổn thương sọ não, chủ yếu là do tai nạn xe máy, mô tô, theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tổn thất vật chất hàng năm ở Việt Nam do tai nạn giao thông khoảng 885 triệu USD. Con số này còn cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84 triệu dân Việt Nam trong năm 2005 (817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu ngân sách cả nước thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu ngân sách cả nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do tai nạn giao thông đường bộ khoảng 518 tỷ USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số tổn thất gần 1 tỷ USD/năm của Việt Nam là quá nghiêm trọng.

doc50 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5075 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI “Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing” PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp các nẻo đường gần xa khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người đang tham gia giao thông, hãy nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình mình, góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó còn tăng lên rất nhiều mà phần lớn nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn là do ý thức , thái độ chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người còn hạn chế như: uống rượu bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu… Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ. Thống kê còn cho thấy, khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hai cơ quan này cảnh báo, nếu chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn tình trạng này thì đến năm 2020, tai nạn giao thông sẽ đứng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở người. Ở Việt Nam, hằng năm có 12.000 người thiệt mạng vì an toàn giao thông và 30.000 người khác tổn thương sọ não, chủ yếu là do tai nạn xe máy, mô tô, theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tổn thất vật chất hàng năm ở Việt Nam do tai nạn giao thông khoảng 885 triệu USD. Con số này còn cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84 triệu dân Việt Nam trong năm 2005 (817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu ngân sách cả nước thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu ngân sách cả nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do tai nạn giao thông đường bộ khoảng 518 tỷ USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số tổn thất gần 1 tỷ USD/năm của Việt Nam là quá nghiêm trọng. Với sự nhịp sống nhanh và thay đổi hàng giờ như hiện nay nhu cầu đi lại tham gia giao thông là việc tất yếu của mỗi cá nhân và thái độ của chúng ta khi tham gia giao thông ảnh hưởng rất lớn tới sự an toàn của bản thân và những người xung quanh. Lứa tuổi thanh niên trong đó có sinh viên là lứa tuổi mới lớn, không ít người trong đó có tư tưởng muốn khẳng định bản thân, cá tính của mình. Họ thể hiện cả điều đó khi tham gia giao thông nhưng họ không lường hết được hậu quả của nó gây nên những tai nạn thương tâm làm thiệt hại nặng nề về người và tài sản, tạo nên gánh nặng cho gia đình và cho xã hội. Trong tổng số 10.140 vụ tai nạn giao thông, có 37% vụ liên quan đến đối tượng dưới 24 tuổi. Tại thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2005-2010 có tới gần 2.000 trường hợp học sinh, sinh viên vi phạm an toàn giao thông, trong đó 1.300 trường hợp bị xử phạt hành chính và 7 trường hợp bị khởi tố do vi phạm luật an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng. Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài “Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu: - Làm rõ thái độ của sinh viên ở khoa KTKT và QTKD trường Đại học Tài chính – Marketing đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy, chỉ ra thực trạng của vấn đề. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu: - Khách thể nghiên cứu: Sinh viên khoa KTKT và QTKD trường Đại học Tài chính – Marketing. - Khách thể khảo sát: 306 sinh viên khoa KTKT và QTKD. - Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông. - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: cơ sở 3. + Thời gian: từ tháng 4 đến tháng 8/2012. 4. Giả thuyết nghiên cứu: Khi tham gia giao thông, thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa KTKT và QTKD còn chưa cao, có sự khác nhau giữa các trường, nam và nữ. Cụ thể chúng tôi đặt giả thuyết là những sinh viên khoa KTKT sẽ chấp hành luật giao thông tốt hơn sinh viên khoa QTKD. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thái độ và thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ. - Khảo sát thực trạng thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD về việc chấp hành luật lệ giao thông khi tham gia giao thông, ảnh hưởng của một số yếu tố đến thực trạng này. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi tham gia giao thông. 6. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Anket): dùng để tìm hiểu thực trạng thái độ của sinh viên về việc chấp hành luật lệ giao thông khi tham gia giao thông của khách thể. - Phương pháp phỏng vấn: dùng để thu thập dữ liệu ban đầu cho việc thiết kế bảng câu hỏi và bổ sung thêm thông tin cho các kết luận thu được từ việc xử lí số liệu. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thống kê toán học: dùng để xử lí số liệu nghiên cứu. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ 1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ trên thế giới Từ cuối những năm 50 đến nay, các nước phương Tây phục hồi và phát triển trở lại sau chiến tranh cùng với đó các công trình nghiên cứu thái độ cũng được tiếp tục với nhiều ý tưởng mới. Tuy nhiên chính lúc này tâm lý học về thái độ cũng lâm vào khủng hoảng. Trong tâm lý học xã hội, vấn đề thái độ cũng có một vị trí xứng đáng, các nhà nghiên cứu tiếp tục đưa ra quan niệm mới về định nghĩa, cấu trúc, chức năng….. của thái độ. Thời kỳ này đã xuất hiện các phương pháp đo thái độ gián tiếp qua các chỉ số sinh học ( phương pháp điện cơ mặt), kỹ thuật đường ống giả vờ, kỹ thuật lấn từng bước một. Vào năm 1957 có một nghiên cứu đã lý giải tại sao “ Hành vi lại ảnh hưởng tới thái độ của con người?” đó là thuyết bất đồng nhận thức (Leon Festinger), thuyết tự thể hiện, thuyết tự tri giác (Darylbem). Ngoài các vấn đề trên các nhà tâm lý học phương Tây còn tập trung nghiên cứu, xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của thái độ nhất là các vấn đề vai trò, cấu trúc, chức năng của thái độ như các nghiên cứu của M.Rokeach (1968), T.M. Ostrom ( 1969) U.J.Mc.Guire (1969), và J.R.Rempell (1988). Đến năm 1972 cũng có một học thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của con người. Đó là thuyết “ Tự nhận thức” của Daryl Bem. Hai học thuyết của Festinger và Daryl Bem có ảnh hưởng khá lớn đến các nghiên cứu sau này. Không những thế các nhà nghiên cứu cũng đưa ra phương pháp  nghiên cứu hình thành, thay đổi thái độ như phương pháp “đường ống giả vờ” cho phép đo các thái độ của con người do Edward Jones và Harold Sigall (1971) đề ra kỹ thuật “ lấn từng bước một” của Jonathan Freedman và Scott Fraer (1966). Trong nghiên cứu tâm lý học giáo dục phương Tây (Learning set), các tác giả thường coi thái độ học tập là một trong những nhân tố đóng vai trò động cơ thúc đẩy tính tích cực của học sinh  với giáo viên, với môn học, cũng như thái độ trong từng giai đoạn học tập. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó lại dựa vào “Thuyết hành vi” đề cao vai trò của các yếu tố do con người tạo nên, như thưởng, phạt mà không chú ý nhiều đến các yếu tố môi trường, chủ thể trong việc hình thành tri thức, kĩ năng. Xu thế chung của nghiên cứu thái độ hiện nay là nghiên cứu ứng dụng, phục vụ cho các mục đích vận động bầu cử, tiếp thị, tuyên truyền bảo vệ môi trường, chữa bệnh…. Theo B.N.Sikhirep, đặc điểm tình hình nghiên cứu thái độ hiện nay ở phương Tây là một mặt ngày càng có nhiều công trình và các phương pháp cụ thể nghiên cứu thái độ, mặt khác lại bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm. Sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta xem xét về vấn đề thái độ nếu như chỉ xét nó ở khía cạnh của các nhà Tâm lý học phương Tây mà bỏ quên các quan điểm của các nhà Tâm lý học Liên Xô ( cũ). - Thuyết nghiên cứu thái độ trong tâm lý học nhân cách Thuyết “thái độ nhân cách” của nhà tâm lý học V.N.Miaxisev cho rằng nhân cách là một hệ thống thái độ. Theo tác giả, phản xạ có điều kiện chính là cơ sở sinh lí học của thái độ có ý thức của con người với hiện thực. Miaxisev chia thái độ ra làm hai loại: tích cực và tiêu cực. Cùng với các quá trình, các trạng thái, các thuộc tính tâm lý, thái độ là một trong những hình thức thể hiện tâm lý người. Ông cho rằng: “ Thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong có tính chọn lọc cao các mối liên hệ đa dạng của con người với các khía cạnh khác nhau của hiện thực và với toàn bộ ý thức nói chung. Tuy nhiên, Miaxisev lại cho rằng các quá trình tâm lý nhu cầu, thị hiếu, hứng thú, tình cảm, ý chí,… đều là thái độ. Có thể thấy việc xếp ngang hàng quan hệ xã hội với thái độ là chưa thoả đáng, cũng như coi thuộc tính tâm lý của nhân cách là thái độ cũng chưa có cơ sở. Tuy vậy, Miaxisev vẫn là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học theo quan điểm Macxit. Miaxisev cũng đã dùng thuyết thái độ nhân cách để sử dụng trong y học. Gần đây, khi nghiên cứu nhân cách như một phạm trù cơ bản của tâm lý học, V.F.Lomop - nhà tâm lý học Xô viết đã đề cập đến thái độ chủ quan của nhân cách, sự chế định của quan hệ xã hội đối với thái độ chủ quan, sự hình thành thái độ chủ quan thông qua hoạt động và giao tiếp. - Thuyết định vị của V.A.Iadov Dựa trên “thuyết tâm thế” của Uznatze, V.A.Iadov đã phát triển khái niệm tâm thế, nhằm điều chỉnh các hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân. Iadov cho rằng con người có một hệ thống các định vị khác nhau, rất phức tạp, và hành vi của con người bị điều khiển bởi các tổ chức “định vị” này. Các định vị này được tổ chức theo bốn bậc với các mức độ khác nhau, trong một hệ thống định vị, định vị bậc cao có thể chi phối định vị bậc thấp. Điều đó cho phép lý giải hợp lý hành vi xã hội của cá nhân cũng như sự mâu thuẫn giữa hành vi và thái độ. Bậc 1: Bao gồm các tâm thế bậc thấp, như trong quan niệm của Uznatze, hình thành khi có sự gặp gỡ của nhu cầu sinh lý với đối tượng thoả mãn nhu cầu, tâm thế chỉ là một dạng định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng của cá nhân trong những tình huống đơn giản nhất. Bậc 2: Các định vị phức tạp hơn được hình thành trên cơ sở các tình huống giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ. Bậc 3: Các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích được hình thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể. Bậc 4: Bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của nhân cách trong những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất đối với nhân cách. Như vậy có thể thấy, hệ thống “định vị” có thứ bậc từ thấp đến cao, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các điều kiện xã hội ngày nay càng được mở rộng và ổn định hơn. Từ hệ thống “định vị” chúng ta có thể lý giải một cách hợp lý hành vi xã hội của cá nhân, cũng như những mâu thuẫn giữa hành vi với thái độ của cá nhân. Đó là vì các "định vị” ở bậc thấp, bị điều khiển, bị chi phối bởi các "định vị" ở bậc cao hơn. “Thuyết định vị ” đã nghiên cứu thái độ ở một góc nhìn hoàn toàn mới. Nó đã thiết lập được mối liên hệ giữa những cách tiếp cận hành vi của nhân cách từ các góc độ khác nhau như tâm lý học đại cương, tâm lý học xã hội. Tuy nhiên thiếu sót chủ yếu của Iadov là đã không làm rõ khái niệm “định vị” là gì, đồng thời cũng không chỉ ra được cơ chế điều chỉnh hành vi bằng các “định vị” trong những  tình huống xã hội . Tóm lại, nhờ vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách trong nghiên cứu thái độ, gắn thái độ với nhu cầu với điều kiện hoạt động, coi thái độ là hệ thống thứ bậc. Tâm lý học Xô Viết đã đưa ra các cách lý giải hợp lý về sự hình thành thái độ, vị trí của thái độ với cấu trúc của nhân cách, chức năng của thái độ trong điều chỉnh hành vi xã hội và hoạt động của cá nhân. 1.1.2. Các nghiên cứu về thái độ ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu thái độ ở Việt Nam kế thừa thành tựu của tâm lí học Xô Viết và Đông Âu cũ.Việc nghiên thái độ ở Việt Nam chưa nhiều, chưa được chuyên sâu như ở Phương Tây và Liên Xô cũ Hầu hết các nhà tâm lý học ở Việt Nam đều xuất phát từ quan điểm tâm lý học hoạt động khi nghiên cứu con người trong đó có vấn đề thái độ. Thái độ được tác giả đề cập trên bình diện lý luận, chủ yếu là khái quát hoá những vấn đề lý luận về thái độ như định nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của thái độ ( Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Đức Phúc, Trần Hiệp…). Trên bình diện thực tiễn, nhiều công trình nghiên cứu khá công phu chủ yếu tập trung nghiên cứu về thái độ học tập trên đối đối tượng là học sinh, sinh viên từ đó rút ra những kết luận làm cơ sở cho công việc nâng cao chất lượng giáo dục. Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã chú trọng nghiên cứu tới vấn đề thái độ trên nhiều đối tượng khác nhau và có nhiều ứng dụng vào hiệu quả phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghiên cứu của tác giả Vũ Dũng với đề tài: “Thái độ và hành vi của người dân với môi trường”. Quan điểm của tác giả trong đề tài này đó là: - Thái độ có ảnh hưởng lớn đến của con người đối với môi trường. - Thái độ với môi trường sẽ quy định một cách thức nhất định cho hành vi của con người đối với môi trường. - Thái độ là một thành tố cơ bản tạo nên ý thức của con người đối với môi trường. Khi thái độ tích cực thì con người sẽ nhận thức rõ hơn sự cần thiết và trách nhiệm của mình đối với việc bảo vệ môi trường. Nhiều tác giả nghiên cứu về thái độ học tập của học sinh, sinh viên và bước đầu đã xác định được vai trò, vị trí của thái độ trong hình thành động cơ học, tính tích cực học tập, hứng thú học tập. Các tác giả cũng đã cố gắng tìm ra các chỉ báo chi tiết về thái độ học tập, những vấn đề chung của thái độ như: cấu trúc của thái độ, mối quan hệ của thái độ với các khái niệm khác. Như vậy, mảng đề tài về thái độ được khá nhiều tác giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên đề tài nghiên cứu về vấn đề chấp hành đúng luật giao thông khi tham gia giao thông còn ít. 1.2. Lý luận về thái độ 1.2.1. Khái niệm thái độ Mỗi cá nhân khác nhau có những cách nhìn nhận cuộc sống theo cách riêng của mình, từ đó cũng hình thành các thái độ khác nhau đối với các mặt của đời sống như: “thái độ làm việc”, “ thái độ học tập”, “ thái độ đối với việc tuân theo các chuẩn mực xã hội”….Khi đề cập đến thái độ trong các ví dụ trên chúng ta thấy, mọi người thường hiểu chúng là đạo đức, quan điểm, lối sống của một người trước một số đối tượng nhất định như: hàng hoá, hay các chủ thể nào đó. Nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã có sẵn cơ chế tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ có sẵn đó, tri giác về đối tượng, cũng như tri giác về sự bị chi phối, về vận động thì tri giác gắn liền với tư thế. Trong Từ điến Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, thái độ được hiểu là “ mặt biểu hiện bề ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì, thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động”. Thái độ còn là “ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng trước sự vật hay vấn đề gì”. Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học xuất bản cho rằng: “Thái độ là tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài ( bằng nét mặt cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề hoặc một tình hình nào đó. Trong từ điển Anh - Việt, “Thái độ” được viết là “Attitude” và được định nghĩa là “ cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân”. Như vậy, các từ điển định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “ cách ứng xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó được cấu thành rất phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khi định nghĩa về thái độ là khác nhau. Còn ở Việt Nam thì khái niệm thái độ thường được các nhà tâm lý học quan niệm là sự biểu hiện thuộc tính cơ bản của nhân cách, thái độ là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản của ý thức. Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện thì trước một hiện tượng nhất định, nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn, có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về vấn đề thì thái độ gắn liền với tư thế ”. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích các định nghĩa, các cách hiểu về thái độ của các nhà tâm lý học chúng tôi xin đưa ra cách hiểu của mình về khái niệm thái độ như sau: “ Thái độ là trạng thái tâm lý chủ quan của cá nhân, sẵn sàng phản ứng theo một khuynh hướng nhất định ( tích cực hay ngược lại) đối với một đối tượng nào đó, được thể hiện thông qua nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi của chủ thể trong những tình huống, những điều kiện cụ thể.” 1.2.2. Đặc điểm của thái độ Thái độ có 5 đặc điểm: Thái độ là trạng thái thần kinh của hệ thần kinh Thái độ là sự sẵn sàng của sự phản ứng Thái độ là trạng thái có tổ chức Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ Thái độ điều khiển và ảnh hưởng tới hành vi Ngoài ra thái độ còn có những đặc điểm sau: - Tính phân cực: bất kỳ một thái độ nào cũng được biểu hiện bằng sự đồng tình hay phản đối, tích cực hay không tích cực. - Tính ổn định: Thể hiện ở thời gian tồn tại của thái độ, mối quan hệ giữa ba thành phần của thái độ. Hệ thống thái độ đã hình thành ở người trưởng thành thì đó là thuộc tính tâm lý khá bền vững. - Cường độ: là sự thể hiện mạnh hay yếu của thái độ. - Mức độ: thái độ thể hiện nhiều hay ít, cùng một tính chất nhưng mức độ biểu hiện có thể là không giống nhau. Như vậy trong những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể thì thái độ tồn tại như một trạng thái, một tâm thế chủ quan, chi phối sự định hướng, quyết định hành vi phản ứng của cá nhân được biểu hiện ở hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ ở bên ngoài hay những xúc cảm bên trong cá nhân. Vì vậy chúng ta phải có cái nhìn vừa khoa học, vừa linh hoạt khi nghiên cứu và đánh giá về thái độ con người. 1.2.3. Mối quan hệ của thái độ và các khái niệm có liên quan Thái độ là mặt biểu hiện sinh động nhất của nhân cách con người vì nó gắn liền với thuộc tính sâu xa và nhạy cảm nhất của mỗi cá nhân: nhu cầu, tình cảm, tâm thế,… khi nhu cầu được thỏa mãn thì người ta có thái độ hài lòng, phấn khởi, ngược lại khi nhu cầu không được thỏa mãn thì gây ra thái độ khó chịu, bực bội. Do tính phức tạp đó mà nghiên cứu thái độ phải xem xét đến những biểu hiện đa dạng của nó trong các mối quan hệ với các khái niệm liên quan đến nó. - Mối quan hệ giữa thái độ và ý thức cá nhân Ý thức: “Hình thức phản ánh bậc cao, đặc trưng của loài người, là năng lực nhận thức được phổ biến và cái bản chất trong hiện thực khách quan đồng thời là năng lực định hướng, điều khiển một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với hoàn cảnh tự nhiên xã hội”. Cấu trúc của ý thức gồm ba thành phần: nhận thức, thái độ, và sự năng động của ý thức. Chức năng của ý thức là định hướng, điều chỉnh, điều khiển hành vi hoạt động của con người. Thái độ cũng là một nhận thức, biểu hiện mối quan hệ ngược lại của ý thức với hiện thực, tuy nhiên không phải lúc nào ý thức cũng điều khiển được thái độ. Thái độ có thể biểu hiện bột phát không ý thức, thái độ có thể biểu hiện tự nhiên không ý thức, có thể thiếu ý thức hoặc không ý thức… Như vậy, thái độ và ý thức có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Thái độ phản ánh các hiện tượng của thế giới khách quan có chọn lọc, đồng thời là hình thức tác động trở lại của con người đối với hiện thực. Vì vậy, khi nghiên cứu thái độ phải nghiên cứu thông qua ý thức và ngược lại. - Mối quan hệ giữa thái độ và nhu