Đề tài Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật TTHS 2003 và những ưu điểm, hạn chế cũng như ý nghĩa của việc mở rộng thẩm quyền xét xử

Xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm trong tâm trong đề tài mà người viết thực hiện là: “Thẩm quyề xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật TTHS 2003 và những ưu điểm, hạn chế cũng như ý nghĩa của việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện”. Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý tư pháp cần có sự đổi mới đồng bộ về pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho sự phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp, đồng thời cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài để thực hiện việc phân định lại thẩm quyền xét xử hợp lý và đạt hiệu quả cao. Tìm hiểu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn lập pháp.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2217 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật TTHS 2003 và những ưu điểm, hạn chế cũng như ý nghĩa của việc mở rộng thẩm quyền xét xử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm trong tâm trong đề tài mà người viết thực hiện là: “Thẩm quyề xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật TTHS 2003 và những ưu điểm, hạn chế cũng như ý nghĩa của việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện”. Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý tư pháp cần có sự đổi mới đồng bộ về pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho sự phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp, đồng thời cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài để thực hiện việc phân định lại thẩm quyền xét xử hợp lý và đạt hiệu quả cao. Tìm hiểu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn lập pháp. NỘI DUNG I, Nhận thức chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp. 1, Khái niệm và căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của tòa án. Trong thực tiễn lập pháp hiện nay đã đưa ra khái niệm khá chính xác về thẩm quyền xét xử. Trong từ điển luật học thì “thẩm quyền” là: “quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề”. Theo quy định tại Điề 127 Hiến Pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002: “TAND Tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương. Các Tòa án quân sự và Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quyền xét xử thuộc về Tòa án được hiểu là thẩm quyền xét xử. Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến danh dự, nhân quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng và các quyền, lợi ích khác của họ. Do vậy Tòa án được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà nước tuyền bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. “Không ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 9 Luật TTHS 2003. Khi xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của một vụ án, cần phải xác định đồng thời ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án, những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện tội phạm, những dấu hiệu liên quan đến người phạm tội. Chỉ trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng từng nhóm dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác. Vậy thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là: “Quyền của Tòa án được xét xử vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm, được thực hiện tính phức tạp của vụ án, địa điểm xẩy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân của người phạm tội”. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toàn án cần phải dựa vào các căn cứ sau: - Đường lối chính sách của Đảng; - Nguyền tăc cơ bản của luật tố tụng hính sự; - Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; - Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán cũng như điều tra viên, kiểm sát viên; - Biên chế và cơ sở vật chất; - Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm… Quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong lĩnh vực hình sự ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố: hệ thống pháp luật, cách thức tổ chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực của Thẩm phán, điều kiện xét xử…mà việc quy định thẩm quyề xét xử cũng khác nhau. ở Việt Nam, các Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ (trừ Toàn án quân trủng Hải quân của tòa án quân sự), thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng được quy định hỗn hơp: - Tòa án cấp Huyện và Tòa án Quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. - Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, TAQS cấp Quân Khu vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. 2, Xét xử vụ án hình sự và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 2.1, Quan niệm xét xử vụ án hình sự. Bộ luật TTHS quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khở tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Hình sự. “Điều tra, truy tố, xét xử là các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, là các phần độc lập, liên quan đến nhau của quá trình TTHS, phân biệt với nhau bằng những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, những người tham gia tố tụng tương ứng, có trình tự thủ tục thực hiện các hành vi tố tụng khác nhau và đặc tính tố tụng khác nhau”. Đặc điểm chung của quá trình tố tụng hình sự là: - Mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ tố tụng nhất định. - Mỗi giai đoạn có những cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhất định. Trong giai đoạn điều tra vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm…. Viên kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật vầ TTHS. Trong giai đoạn xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố tại phiền tòa…vv. - Mỗi giai đoạn có trình tự, thủ tục các hành vi tố tụng riêng. Trình tự, thủ tục đó do nội dung và nhiệm vụ cần giải quyết và những đòi hỏi cụ thể của các nguyên tắc tố tụng chung thể hiện trong giai đoạn đó quyết định. - Mỗi giai đoạn được kết thúc bằng văn bản tố tụng khác nhau. Giai đoạn khởi tố kết thực bằng quyết định khởi tố, giai đoạn điều tra kết thúc bằng bản kết luận điều tra, giai đoạn kiểm sát điều tra và giai đoạn truy tố vụ án được kết thúc bằng bản cáo trạng, các giai đoạn xét xử kết thúc bằng bản án. Tất nhiên, các văn bản tố tụng trên là thể hiện cả quá trình điều tra hoàn chỉnh. Nếu vụ án được chấm dứt giữa chừng vì những lý do nhất định thì giai đoạn đó có thể được kết thúc bằng một văn bản tố tụng khác. ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là quyết định không khởi tố vụ án, ở giai đoạn kiểm sát điều tra có thể là quyết định đình chỉ vụ án của VKS, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có thể là quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán… - Ở mỗi giai đoạn, các quan hệ tố tụng có những đặc điểm riêng của mình. Các quan hệ tố tụng ở giai đoạn điều tra có thể khác nhau ở giai đoạn xét xử. Khối lượng, phạm vi, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể quan hệ tố tụng khác nhau trong mỗi giai đoạn. Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua hoạt độn xét xử, Tòa án góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọ hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và kỷ cương đất nước. Hiện nay, có nhiều các hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét xử, theo từ điển Luật học thì: “Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các tòa án. Các tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án”. Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì: “Xét xử là hoạt động của tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của tòa án”. Theo quan điểm này thì xét xử chỉ là những hoạt động tại phiên tòa của tòa án. Xét xử không chỉ đơn giản là kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố rồi tuyên án. Mà là một hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước do tòa án thực hiện, nhằm giải quyết những vụ án hình sự, dân sự…theo quy định của pháp luật. Xét xử án hình sự, như trên đã phân tích bao gồm xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xét lại bản án và quyết định cảu tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Xét xử phúc thẩm là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nhị theo quy định của pháp luật nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án và quyết định sơ thẩm. Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có sự vi phạm pháp luật trong quá trình xử lý vụ án. Tái thẩm là việc xét lại bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tôi, đúng pháp luật có ý nghĩa rất lớn đối với xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm bởi lẽ: Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, hoặc án phúc thẩm sẽ tuyên y án sơ thẩm nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Xét xử sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ không làm phát sinh kháng nghị giám đốc thẩm. Còn xét xử sơ thẩm không đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới phải phúc thẩm, giám đốc thẩm và kết quả là bản án sơ thẩm sẽ bị sửa hoặc hủy để điều tra xét xử lại. 3, Mục đích của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Xét xủ sơ thẩm vụ án hình sự là quyết định trung tâm, quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Trong quá trình xét xử sơ thẩm, Nội dung vụ án được điều tra xem xét, một cách toàn diện, từ đó hội đồng xét xử xác định bị cáo có tội hay không. Nếu bị cáo phạm tội, thì tòa án quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc cho họ được miễn hình phạt. Quyền và lợi ích hợp pháp tội phạm và người tham gia tố tụng khác nhau phụ thuộc vào kết quả việc xét xử. Kết quả đó thể hiện bằng bản án văn bản tố tụng quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để giải quyết được vấn đề đó, việc xét xử phải được tiến hành một cách nghiêm ngặt theo các nguên tắc của luật tố tụng hình sự. Tòa án, thẩm tra, xét xử khách quan, tòa diện đầy đủ các chứng cứ của vụ án đã được thu thập trong quá rình điều tra, cũng như được đưa ra trong quá trình xét xử, kết hợp với việc tranh tụng công khai và bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử của tòa án mang tính chất quyết định để xác định tội phạm, người phạm tội và áp dụng các hình phạt tương úng theo quy định của pháp luật. Khi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, mọi công dân và những người liên quân trực tiếp đến bản án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mục đích là: Bỏa vệ chế độ chính trị, trật tự an tòa xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của công dân… Nội dung cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm là thực hiện tốt nhiệm vụ của bộ luật TTHS. Đó là: Phát hiện nhanh chóng và xác định tội phạm một cách khách quan, tòa diện xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Từ đó áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với người phạm tội, đảm bảo tính cưỡng chế, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta và tăng cường tính giáo dục trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trách nhiệm của tòa án là phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ các yếu tố buộc tội cũng như gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là công việc của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Công tác này đòi hỏi phải có những biện pháp tổng hợp về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và cả những tác động của pháp luật. Trong đó tòa án giữ vai trò rất quan trọng. Đó là thông qua việc giả quyết vụ án một cách đúng đắn và kịp thời. 4, ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, tòa bộ nội dung vụ án sẽ được xem xét trong giai đoạn này, khác với cấp xét xử phúc thẩm chỉ xem xét vụ án theo nội dung kháng cáo kháng nghị. Do vậy việc xác định đúng thẩm quyền so thẩm có ý ngĩa sâu sắc về mặt chính trị xã hội. - Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm sẽ bảo đảm được quyền tự do dân chủ của công dân. - Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của các hoạt động tố tụng. - Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp. - Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm. - Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm xét xử chính xác, khách quan các cụ án hình sự. II, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của luật TTHS Việt Nam năm 2003. Bộ Luật TTHS năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của pháp luật nước ta. Như quy định của Bộ luật TTHS nay đã có những đổi mới sâu sắc thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Một trong những sửa đổi cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2003 chính là sửa đổi thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp Huyện. Đó là một trong những nội dung quan trọng của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta. 1, Thẩm quyền xét xử theo sự việc. Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau và căn cứ vào tính chất của tội phạm. Nếu thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án Quân sự khu vực được quy định hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xẩy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác động giáo dục răn de và góp phần bảo vệ trật tự xã hội. * Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án quân sự khu vực. Tòa án nhân dân cấp Huyện là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử theo quy định của luật TTHS Việt Nam hiện hành. Việc phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp Huyện có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định thẩm quyền của cấp xét xử thấp nhất sau đó mới quy định thẩm quyền của các cấp xét xử cao hơn. Khoản 1 Điều 170 Luật TTHS 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Theo quy định của điều này, TAND cấp Huyện có thẩm quyền xét xử những vụ án hính sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng trừ những tội phạm sau đây: - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia. - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; - Tội phạm quy định tại Điều 93, 95, 96, 172, 216, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 Bộ luật Hình Sự. Như vậy, thẩm quyền xét xử theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật TTHS 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 là 15 năm tù trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c Điều 170 Bộ luật TTHS. Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật TTHS thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp Huyện được mở rộng hơn so với quy định tại Điều 145 Bộ luật TTHS năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp Huyện. Đây là một chủ trương mới và rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp Tòa án và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư pháp theo Nghị định 49-NĐ/TW của Bộ chính trị và đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện là một giải pháp giảm lượng án tồn đọng ở tòa án cấp tỉnh và tòa án phúc thẩm TAND tối cao. Đây cũng là một bước cải cách phù hợp với tình hình của ngành tòa án hiện nay khi trình độ truyên môn của Thẩm phán TAND huyện đang từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất của ngành tòa án cấp huyện cũng đã đáp ứng được với nhiệm vụ xét xử mới. * Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và tóa án quan sự cấp quân khu. Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định tại khoản 2 Điều 170, Bộ luật TTHS 2003. Theo quy định của điều luật TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về những tội phạm nghiêm trọng, từ những vụ án về những tội mà mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù. Những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực được quy định tại điểm a.b, c khảo 1 Điều 170 Bộ luật TTHS. Những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới (cấp huyện, khu vực) nhưng TAND cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của vụ án. Bộ luật TTHS không quy định cụ thể những vụ án nòa thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó, Chánh án tòa án, VTVKS và thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, VKS và TA cấp tỉnh cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử các vụ án sau: vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất một vấn đề của vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành). Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong cộng đồng dân tộc ít người. Như vậy, khi có những vụ án thuộc vào các trường hợp này thì cơ quan điều tra cấp huyện trao đổi với viện kiểm sát cùng câp và chuyển hồ sơ vụ án lên cơ quan điều tra cấp tỉnh để điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển lên thì viện kiểm sát cấp huyện chuyển vụ án cho viện kiểm sát cấp tỉnh trước tòa án cấp tỉnh. 2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng. Đối tượng phạm tội được xem là một trong những dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án. Ở Việt Nam, phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng là phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và TAQS. Trong bộ luật TTHS năm 2003 không có điều luật quy định cụ thể phân định đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Tại Điều 3 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 quy định “Các tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: 1, Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; 2, Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử thì TAQS và TAND xét xử theo những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. Những người không phục vụ trong quân đội mà phát
Luận văn liên quan