Đề tài Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số kiến nghị

Bảo hiểm Việt nam ra đời và đi vào hoạt động từ 7/7/2000. Như vậy sau hơn hai thập kỉ kể từ khi đất nước bước vào đổi mới , một tổ chức tài chính được ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn , lành mạnh hoạt động ngân hàng . Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong quản lý , điều hành nền kinh tế của đất nước theo cơ chế thị trường, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình hội nhập với kinh tế thế giới. Đứng trước cuộc khủng khoảng tài chính như hiện nay, các ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng có nhiều biến động lớn về chính sách tài chính tiền tệ, đòi hỏi các ngân hàng phải có cơ chế điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trong bối cảnh này việc bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và tạo niềm tin đối với khách hàng là hoạt động thiết thực . Để thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong tình trạng khủng khoảng tài chính hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều chính sách thiết thực nhằm ổn định tình . Đặc biệt các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã thực hiện đầy đủ và ngày càng tốt hơn các quy định của pháp luật đặc biệt các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm tạo niềm tin cho khách hàng đồng thời tăng uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Mặt khác trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, và trước tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới thì sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ngày càng quyết liệt . Đây là bài toán khó đặt ra đối với các ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Do vậy việc áp dụng các chính sách của pháp luật vào hoạt động ngân hàng được chú trọng , nhất là việc áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại.

doc24 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Lời mở đầu Bảo hiểm Việt nam ra đời và đi vào hoạt động từ 7/7/2000. Như vậy sau hơn hai thập kỉ kể từ khi đất nước bước vào đổi mới , một tổ chức tài chính được ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn , lành mạnh hoạt động ngân hàng . Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong quản lý , điều hành nền kinh tế của đất nước theo cơ chế thị trường, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình hội nhập với kinh tế thế giới. Đứng trước cuộc khủng khoảng tài chính như hiện nay, các ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng có nhiều biến động lớn về chính sách tài chính tiền tệ, đòi hỏi các ngân hàng phải có cơ chế điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trong bối cảnh này việc bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và tạo niềm tin đối với khách hàng là hoạt động thiết thực . Để thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong tình trạng khủng khoảng tài chính hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều chính sách thiết thực nhằm ổn định tình . Đặc biệt các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã thực hiện đầy đủ và ngày càng tốt hơn các quy định của pháp luật đặc biệt các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm tạo niềm tin cho khách hàng đồng thời tăng uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Mặt khác trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, và trước tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới thì sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ngày càng quyết liệt . Đây là bài toán khó đặt ra đối với các ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Do vậy việc áp dụng các chính sách của pháp luật vào hoạt động ngân hàng được chú trọng , nhất là việc áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại.Trong phạm vi bài viết này em xin trình bày về một vài thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. II.NỘI DUNG 1.Một vài nét về tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Về lịch sử hình thành Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng , được thực hiện từ rất sớm ở nhiều nước. Chẳng hạn như ở Mỹ , bảo hiểm tiền gửi xuất hiện từ năm 1934. Bảo hiểm tiền gửi hiện nay có một vị trí ,vai trò qua trọng đối với các tổ chức tín dụng, đây là một trong những biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Thực tế ở các nước cho thấy ,khi có bảo hiểm tiền gửi ra đời hoạt động có hiệu quả, thì số lượng các ngân hàng tuyên bố phá sản giảm đi rõ rệt. Bởi vì nhờ có bảo hiểm tiền gửi đã ngăn chặn sự đổ vỡ mang tính dây chuyền trong ngân hàng thương mại , góp phần duy trì sự phát triển ổn định ,an toàn cho các tổ chức tín dụng. Nhờ có bảo hiểm tiền gửi mà quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được đảm bảo, các ngân hàng đã tạo ra được niềm tin cho người gửi tiền, góp phần phát triển kinh tế của đất nước, nhất là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời từ cuối năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động từ 7/10/2000 . Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, thời gian tuy chưa nhiều đối với một tổ chức,nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được những kết quả khả quan . Cho đến nay tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đã mở rộng mạng lưới hoạt động tới các khu vực trong phạm vi cả nước, đó là đã thành lập được sáu chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực gồm: Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh khu vực Hà Nội; khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (tại Cần Thơ); chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (tại Nha Trang); chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ (tại Cần Thơ);và chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ ( tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước , đồng thời là nơi tập trung nhiều tổ chức tín dụng và tổ chức phi tín dụng. Trong những năm qua Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có nhiều hoạt động và lớn mạnh không ngừng . Trong năm 2007, Bảo hiểm tiền gửi đã có nhiều hoạt động khá hiệu quả như: cấp và thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi , chi trả tiền gửi được bảo hiểm, giám sát rủi ro (giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, thanh lý tại chỗ , thanh lý tài sản và thu hồi nợ )…với hơn 1078 tổ chức tham gia bảo hiểm , trong đó có 76 ngân hàng,1002 tổ chức tài chính phi ngân hàng với số vốn huy động là 1.420.627 tỉ đồng là một lượng tiền khá lớn. Vậy Bảo hiểm tiền gửi được hiểu như thế nào? Theo các quy định hiện hành thì Bảo hiểm tiền gửi là một loaị hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của khách hàng là cá nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định. Khi xaỷ ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở các tổ chức tham gia bảo hiểm đó. (Mục đích của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Bảo hiểm tiền gửi trước hết là vì mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền . Khi ngân hàng nào đó bị phá sản, nếu ngân hàng đó tham gia vào cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoặc được Chính Phủ tuyên bố chi trả bảo hiểm tiền gửi thì những người gửi tiền tại ngân hàng phá sản đó có cơ hội nhận được một phần hay toàn bộ số tiền gửi của mình . Tuy nhiên điều quan trọng hơn là bảo đảm cho tâm lý của người gửi tiền không bị hoang mang, mất niềm tin và người ta sẽ nghĩ đến việc phải vội vã rút tiền gửi từ các ngân hàng khác, điều đó tránh được sự đổ vỡ mang tính dây chuyền có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng , tổ chức tín dụng. Do đó, bảo hiểm tiền gửi không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo vệ quyền lợi trực tiếp của người gửi tiền ở ngân hàng bị phá sản mà còn là một trong các công cụ để đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro và tránh được sự đổ vỡ có tính dây chuyền của hệ thống tín dụng. Mục tiêu tổng quát của bảo hiểm tiền gửi chính là sự ổn định của cả hệ thống tài chính. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi thay mặt chính phủ trực tiếp bảo vệ người gửi tiền thông qua các hoạt động nghiệp vụ như kiểm tra, giám sát từ xa, xử lý đổ vỡ.Các cơ quan chức năng có trách nhiệm cung cấp thông tin rõ ràng , minh bạch về hoạt động tài chính ngân hàng đến người gửi tiền trong đó bao gồm những thông tin về sản phẩm dịch vụ , thông tin về việc công khai bảo vệ người gửi tiền của Chính Phủ thông qua tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ,thông tin về quản trị , điều hành của tổ chức tín dụng…Việc cung cấp thông tin này không chỉ là trách nhiệm của một cơ quan riêng lẻ mà tất cả những cơ quan liên quan như tổ chức tín dụng, tổ chức bảo hiểm tiền gửi , cơ quan giám sát… Ở Việt Nam vấn đề bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền được Chính Phủ quan tâm đặc biệt. Chính Phủ đã công khai bảo vệ người gửi tiền thông qua chủ trương phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Bảo vệ người gửi tiền cũng chính là bảo vệ người tiêu dùng – vấn đề đang được dư luận quan tâm. Người gửi tiền được bảo vệ dưới những góc độ khác nhau như thông qua việc Chính Phủ bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng bằng các cơ quan giám sát, thực hiện chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền,cung cấp thông tin tín dụng đến người tiêu dùng. Tóm lại vai trò của bảo hiểm tiền gửi Việt nam rất quan trọng nhất là trong giai đoạn khủng hoảng như hiện nay. (Các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi Theo quy định của Nghị định số 89/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 và Nghị định số 109/2005/NĐ – CP ngày 14/08/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89 thì đối tượng được bảo hiểm tiền gửi là tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình,tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khi tổ chức này bị phá sản thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách nhiệm chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền.Như vậy đối tượng của bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là đồng Việt Nam, các loại tiền gửi không phải đồng Việt Nam và các loại tiền được gửi ở các ngân hàng, các tổ chức tín dụng nhưng không được coi là tiền gửi thì không thuộc đối tượng được bảo hiểm.Cũng theo quy định này thì các trường hợp sau đây không phải là đối tượng của bảo hiểm tiền gửi: Thứ nhất, tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;Thứ hai tiền gửi của người gửi tiền là thành viên hội đồng quản trị , Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc),Phó tổng giám đốc( phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; Thứ ba là tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;Thứ tư là tiền mua các giấy tờ có giá , trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về phí bảo hiểm tiền gửi được quy định cụ thể trong luật bảo hiểm tiền gửi. Trước hết phí bảo hiểm tiền gửi là khoàn tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi theo mức 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp bốn lần trong năm tài chính theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nếu các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm thời hạn nộp phí bảo hiểm theo quy định thì ngoaì việc nộp đủ số phí còn thiếu , phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp. 2. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàngthương mại Việt Nam a) Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh hiện nay Trong những tháng đầu năm 2008, hoạt động tiền tệ tín dụng ở các ngân hàng thương mại diễn ra hết sức sôi động. Các ngân hàng thương mại đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình và các điểm giao dịch cuả một số chi nhánh ngân hàng trong trong cả nước , lãi suất trên thị trường cũng có nhiều biến động lớn. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, môi trương kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam có nhiều thay đổi lớn. Sự thay đổi đó tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức mới cho các ngân hàng thương mại Vit Nam. Đây là một dịp tốt để các ngân hàng cạnh tranh với những ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đaị về công nghệ , phát triển theo hướng chuẩn hóa và quốc tế hóa các sản phẩm dịch vụ . Hơn nữa các ngân hàng thương mại Việt Nam có cơ hội không chỉ mở rộng thị trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài . Tuy nhiên thách thức đặt ra đối với các ngân hàng cũng không nhỏ về năng lực tài chính, năng lực pháp lý,nguồn nhân lực , công nghệ, dịch vụ… Đứng trước tình hình đó , giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra tình trạng “ chạy đua lãi suất”. Chưa bao giờ lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại lại cao như bây giờ. Hiện nay mức lãi suất phổ biến cho kì hạn 3 tháng là 8,52%/ năm, 6 tháng là 8,78%/năm, 12 tháng là 9,18%/ năm. Lãi suất huy động cao đồng nghĩa với lãi suất cho vay cũng cao. Điều này ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp vay vốn , làm tăng chi phí sản xuât, tác động vào làm giá cả tăng cao. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng buộc phải đa dạng hóa sản phẩm, cung ứng công nghệ hiện đại. b) Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng thương mại (Tình hình kinh tế trong nước và chính sách của pháp luật BHTG Đứng trước tình trạng nền kinh tế có nhiều biến động lớn như hiện nay , các ngân hàng thương mại Việt Nam đã cố gắng để thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng. Số lượng các ngân tham gia tăng hơn nhiều so với các năm. Quy mô và mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại được mở rộng hơn so với trước đây. Trong bối cảnh các ngân hàng đang tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía mình bằng việc cố gắng mang lại lợi ích cao nhất cho người gửi tiền thì việc tạo tâm lý an tâm về sự an toàn tiền gửi là một vấn đề quan trọng và góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn . Vì lẽ đó mà việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi được các ngân hàng thương đề cao nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền với phương châm “lấy khách hàng làm tâm điểm”, các ngân hàng thương maị đã có sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi. Trong những tháng gần đây , người ta liên tục chứng kiến những vụ đổ vỡ ngân hàng diễn ra ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Đây được đánh giá là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong 80 năm qua đối với một nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Như một hiệu ứng toàn cầu , nó đã vượt qua biên giới nước Mỹ và lây lan sang nhiều nước Châu Á, Châu Âu. Tình hình sẽ càng trở nên tồi tệ nếu như người gửi tiền ở các ngân hàng ồ ạt đến rút tiền do tâm lý hoảng loạn . Và hơn lúc nào hết , người ta thấy vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc chung tay góp sức với Chính phủ , Ngân hàng trung ương trong việc xử lý khủng hoảng tài chính . Các công ty bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực như : tiếp nhận xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề, nâng cao hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuyên truyền về chính sách bảo hiểm tiền gửi hoặc công bố chính thức về tình hình tài chính ổn định của quốc gia để trấn an công chúng. Đối với Việt Nam mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu song Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan tăng cường giám sát sự an toàn của các ngân hàng trong nước , đồng thời rà soát sự an toàn của ngân hàng nước ngoài mà các ngân hàng Việt Nam có quan hệ để đảm bảo an toàn tiền gửi từ đó công bố đến người dân được biết để họ yên tâm vào sự an toàn của thị trường tài chính Việt Nam. Về phần mình qua 9 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng góp tích cực đối với hệ thống tài chính ngân hàng .9 năm qua việc triển khai thực hiện có kết quả các hoạt động nghiệp vụ như cấp chứng nhận bảo hiểm tiền, giám sát hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền , hỗ trợ tài chính cho một số tổ chức tín dụng…,Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi để từng bước đưa chính sách bảo hiểm tiền gửi vào cuộc sống, góp phần củng cố niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng nguồn vốn huy động trong dân, khai thác nội lực cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở nước ta hiện nay chính là thiếu khuôn khổ pháp lý , chưa có luật bảo hiểm tiền gửi. Các văn bản dưới luật hiện chưa đồng bộ , chưa đầy đủ đã giảm năng lực hoạt động của bảo hiểm và khả năng đóng góp của tổ chức này trong việc giám sát và ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Tính đến cuối năm 2004 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho 1068 tổ chức tín dụng và tổ chức không phải tổ chúc không phải tổ chức tín dụng được phép thực hiện một hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có huy động tiền gửi của các cá nhân bằng đồng Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiển cho các loại tiền gửi bằng ngoại tệ để góp phần thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động một số tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng thanh toán và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 97 tổ chức tín dụng. Như vậy trong năm 2005, số lượng các tổ là 191 đơn vị , trong đó có 5 Ngân hàng thương mại nhà nước, 34 Ngân hàng thương mại cổ phần , 25 Ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, 4 công ty tài chính và 903 quỹ tín dụng nhân dân. Ngoài ra vấn đề thu bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng đã được thục hiện tốt. Bảo hiểm tiền gửi thườn xuyên theo dõi, hướng dẫn , đôn đốc các đơn vị tính và nộp phí , đảm bảo nguyên tắc thu đúng thu đủ kịp thời theo quy định cuả Nhà nước. Số phí bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng 5 năm sau so với 5 năm trước ở mức 20 – 25%. Đây là nguồn tài chính quan trọng để bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng cường năng lực xử lý các rủi ra có thể xảy ra từ phía các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , hạn chế tới mức thấp nhất việc bao cấp từ ngân sách nhà nước. Theo quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi thì các đơn vị tham gia bảo hiểm tiền gửi đã chấp hành nghiêm chỉnh, nhất là vấn đề nộp phí bảo hiểm tiền gửi.Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhất là các ngân hàng thương mại đã nộp đầy đủ và đúng thời gian mà pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định. (Các ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện các quy định của pháp luật (Về đóng phí bảo hiểm tiền gửi: Hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam đều nộp đúng, đủ mức phí theo quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi. Nhìn chung các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội, khu vực Bắc trung bộ , khu vực Nam trung bộ và Tây nguyên đã nộp đủ và đúng thời hạn mức phí mà luật bảo hiểm tiền gửi quy định. Một số ngân hàng thương mại đã nộp thừa phí như ba ngân hàng thương mại ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có cơ sở tại các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng , An Giang, Đồng Tháp nộp phí thừa với tổng số tiền là 78.290.000 đồng. Nguyên nhân nộp thừa là không loại trừ số dư tiền gửi không được bảo hiểm khi lấy số dư để tính phí…Những trường hợp này đã được baỏ hiểm tiền gửi Việt Nam nhắc nhở. Tuy nhiên trong việc nộp phí theo quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi có nhiều điều cần phải quan tâm. Trong thời gian gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển nhanh, mạnh cả về quy mô hoạt động và tốc độ tăng trưởng . Hầu hết các đơn vị đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hiện đại trong các hoạt động kinh doanh đã mang lại hiệu quả, nâng cao uy tín, hình ảnh đơn vị , đáp ứng yêu cầu phát triển hội nhập. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ngoạn mục đó, còn những bất cập, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, khách quan mà nhiều ngân hàng thương mại chưa thực sự quan tâm khắc phục. Một trong những vấn đề đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Sai sót thường gặp trong cách tính phí Theo quy định, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi- trong đó có các ngân hàng thương mại- có nghĩa vụ nộp phí BHTG bốn kỳ trong năm, định kỳ hàng quý với mức phí 0,15%/năm tính trên toàn bộ số dư bình quân được bảo hiểm. Căn cứ đối tượng tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn tính, nộp phí BHTG của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV),các Ngân hàng thương mại , các tổ chức hạch toán kế toán và ứng dụng phần mềm tùy thuộc điều kiện của mỗi đơn vị để tính phí một cách nhanh chóng, đơn giản. Thế nhưng, việc triển khai thực hiện tính và nộp phí BHTG tại một số Ngân hàng thương mại thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí được xem như là công việc hoàn thiện sau, mặc dù đã qua 8 năm thực hiện. Trong đó, nhiều Ngân hàng thương mại từng được các đoàn kiểm tra của DIV kiến nghị khắc phục chỉnh sửa tại đợt kiểm tra trước đây, nhưng việc nộp thừa, thiếu phí vẫn tiếp tục xảy ra. Qua đợt kiểm tra mới đây đối với các Ngân hàng thương mại có trụ sở chính tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, 2/3 số đơn vị tính và nộp thừa phí, có đơn vị số phí nộp thừa lên tới trên tỉ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chưa xác định đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm và không loại trừ đối tượng không được bảo hiểm. Điều này xuất phát từ việc, ngay từ đầu các đơn vị chưa thực sự quan tâm việc tổ chức hạch toán kế toán tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là cá nhân, tiền gửi của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế một cách thốn
Luận văn liên quan