Đề tài Thực trạng ban hành văn bản pháp pháp luật khiếm khuyết: Một số nhận xét và kiến nghị

Những văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về chính trị chính là những văn bản pháp luật (chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Văn bản pháp luật được ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm quyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xử lí. Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị Đầu tiên, một vấn đề cần khẳng định chính là ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo đất nước thông qua các nghị quyết, các quyết sách chiến lược của Đảng. Nhà nước thể chế hóa những nghị quyết của Đảng bằng pháp luật để lãnh đạo đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Trong những năm qua, có thể nói tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều phản ánh trung thành đường lối của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo đất nước qua những thời kỳ khác nhau của lịch sử Đảng ta cũng không tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc. Trong những thời kì này, các văn bản quy phạm pháp luật đã làm tốt vai trò của mình là: thể chế hóa đường lối của Đảng một cách toàn diện và trung thành. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động ban hành văn bản pháp luật cũng để lại không ít những vấn đề không hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Có thể thấy biểu hiện khiếm khuyết này qua ví dụ sau: Năm 1954 Đảng ta có chủ trương cái cách ruộng đất đánh đổ, cải tạo địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày nghèo. Lúc này có Luật Cải cách ruộng đất đã thể chế hóa chủ trương chính sách trên của Đảng. Trong nội dung của Luật Cải cách ruộng đất chứa đựng một số quy phạm đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng, gây bất bình trong nhân dân. Khi nhận thấy những khiếm khuyết trên, vào năm 1956 Đảng đã sửa sai và ban hành văn bản luật sửa đổi Luật Cải cách ruộng đất.

doc12 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3277 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng ban hành văn bản pháp pháp luật khiếm khuyết: Một số nhận xét và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Pháp luật, với chức năng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, định hướng sự phát triển của chúng theo hướng phù hợp với bản chất của Nhà nước, vì lợi ích chung và sự tiến bộ của xã hội. Trên thực tế, trong thời gian qua, các văn bản pháp luật của chúng ta đã được ban hành tương đối kịp thời, góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận về những khiếm khuyết trong hệ thống văn bản pháp luật đang hiện hữu ở nước ta hiện nay, tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo về nội dung của văn bản pháp luật, vi phạm về thẩm quyền, hình thức và thủ tục xây dựng, ban hành vẫn tồn tại khá phổ biến, ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật nói riêng cũng như hoạt động quản lí nhà nước nói chung. Một vấn đề cấp thiết đặt ra đó chính là phải nhanh chóng khắc phục tình trạng khiếm khuyết của các văn bản pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính vì vậy, trong phạm vi bài viết này, em quyết định lựa chọn đề bài: “Thực trạng ban hành văn bản pháp pháp luật khiếm khuyết- Một số nhận xét và kiến nghị” qua đó mong muốn có thể có một cái nhìn tổng quát về thực trạng văn bản pháp luật khiếm, đồng thời nêu lên một số kiến nghi để khắc phục tình trạng ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết hiện nay ở nước ta I. Thực trạng ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết Văn bản pháp luật khiếm khuyết thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau như văn bản không đáp ứng các yêu cầu về thủ tục xây dựng và ban hành, văn bản được ban hành sai thẩm quyền, vi phạm về hình thức, có nội dung chồng chéo..v.. Theo số liệu tổng hợp bước đầu của Chính phủ, từ 11/2003 đến tháng 5/2005, các bộ, ngành đã tổ chức kiểm tra theo thẩm quyền được 3.632 văn bản, bước đầu đã phát hiện trên 400 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Trong đó, văn bản có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, sai thẩm quyền cần hủy bỏ, bãi bỏ chiếm 4-5%; không đảm bảo về căn cứ pháp lý trên 20%; sai về tên cơ quan ban hành, sai số, ký hiệu văn bản chiếm trên 15%; sai về thể thức và kỹ thuật trình bày chiếm 50%... Với một hệ thống rất lớn các văn bản pháp luật từ trung ương đến địa phương qua rất nhiều thời kì với những biến động to lớn và sâu sắc của đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội trong cả nước và thế giới, trong khuôn khổ bài viết này, không thể chỉ ra tất cả các khiếm khuyết cụ thể của từng văn bản pháp luật mà chỉ có thể nêu lên một vài khiếm khuyết điển hình trong các văn bản khiếm khuyết, qua đó xây dựng nên bức tranh toàn cảnh về thực trạng văn bản pháp luật khiếm khuyết ở Việt Nam. 1. Thực trạng ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết do không đáp ứng yêu cầu về chính trị. Những văn bản pháp luật không đáp ứng được yêu cầu về chính trị chính là những văn bản pháp luật (chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Văn bản pháp luật được ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm quyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xử lí. Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị Đầu tiên, một vấn đề cần khẳng định chính là ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo đất nước thông qua các nghị quyết, các quyết sách chiến lược của Đảng. Nhà nước thể chế hóa những nghị quyết của Đảng bằng pháp luật để lãnh đạo đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Trong những năm qua, có thể nói tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều phản ánh trung thành đường lối của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo đất nước qua những thời kỳ khác nhau của lịch sử Đảng ta cũng không tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc. Trong những thời kì này, các văn bản quy phạm pháp luật đã làm tốt vai trò của mình là: thể chế hóa đường lối của Đảng một cách toàn diện và trung thành. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động ban hành văn bản pháp luật cũng để lại không ít những vấn đề không hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Có thể thấy biểu hiện khiếm khuyết này qua ví dụ sau: Năm 1954 Đảng ta có chủ trương cái cách ruộng đất đánh đổ, cải tạo địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày nghèo. Lúc này có Luật Cải cách ruộng đất đã thể chế hóa chủ trương chính sách trên của Đảng. Trong nội dung của Luật Cải cách ruộng đất chứa đựng một số quy phạm đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng, gây bất bình trong nhân dân. Khi nhận thấy những khiếm khuyết trên, vào năm 1956 Đảng đã sửa sai và ban hành văn bản luật sửa đổi Luật Cải cách ruộng đất. Mặt khác, việc thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiệm minh sẽ trở thành ý thức pháp luật của cộng đồng. Nhưng nếu những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không phù hợp với nguyện vọng, ý chí chính đáng của nhân dân lao động, cũng nhưng không phản ánh nhu cầu thực tiễn của cộng đồng xã hội tất sẽ tạo ra những bất ổn trong việc thực thi pháp luật và điều này ít nhiều đã phản ánh sự bất lực của pháp luật. Trên thực tế, có rất nhiều văn bản pháp luật được ban hành không đáp ứng được yêu cầu trên, ít nhiều đã tạo ra những bức xúc trong dư luận, ta có thể thấy rõ điều này ở một ví dụ sau đây: thông tư 02 ngày 13/1/2003 của Bộ Công an về hướng dẫn tổ chức cấp đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đã quy định: "...Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe môtô hoặc xe gắn máy". Quy định này đã hạn chế quyền sở hữu của công dân, được quy định tại điều 58 Hiến pháp năm 1992, vi phạm khoản 1, điều 221 của Bộ luật hình sự là công dân có quyền sở hữu tài sản không bị hạn chế về số lượng, giá trị.  Quy định trên đã gián tiếp tạo ra những thủ tục rườm rà, gây khó khăn trong các giao dịch mua bán xe máy, buộc người mua xe phải chi thêm những khoản tiền vô lý, gây bất bình trong nhân dân. 2. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết do ban hành trái thẩm quyền Những văn bản pháp luật trái thẩm quyền thường biểu hiện dưới hai dạng sai phạm điển hình đó là: ban hành bởi chủ thể không có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật và văn bản ban hành vượt thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi chủ thể không có thẩm quyền rơi vào trường hợp một số chủ thể không được trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng vẫn ra các văn bản trong đó có chứa đựng quy phạm pháp luật, chằng hạn như các đơn vị trực thuộc Bộ như Cục, Vụ, Viện, Văn phòng… hay cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Tình trạng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND ban hành văn bản có chứa quy phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến. Ví dụ: tại tỉnh Bắc Ninh, trong đợt Tổng rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ năm 1976 đến tháng 12 năm 1997 có 20 Sở, Ban, ngành ở địa phương đã lên xong danh mục văn bản cần ra soát với tổng số là 1248 văn bản các loại. Qua rà soát cho thấy, văn bản quy phạm pháp luật của các Sở, Ban, ngành nêu trên chủ yếu đôn đốc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên trong khi đó các Sở, Ban, ngành địa phương không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thuộc Chính phủ không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tình trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật vượt thẩm quyền xảy ra điển hình ở cả cấp tỉnh, huyện, xã và tập trung chủ yếu ở cấp huyện, xã. Năm 2001, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ban hành Quyết định số 32/2001/QĐ-UB ngày 17/4/2001 để điều chỉnh mức thuế suất trong khi đó thẩm quyền quy định, điều chỉnh thuế thuộc về Quốc hội. Gần đây lại là việc Bộ Y tế ban hành quyết định số 33/2008/QĐ- BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, và Quyết định số 34/2008/QĐ- BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người khuyết tật điều khiển xe moto, xe máy ba bánh dành cho người khuyết tật. Theo đó, hai quyết định này đã đưa ra một loạt các tiêu chuẩn sức khỏe không thực sự cần thiết (83 tiêu chuẩn). đặc biệt có những tiêu chuẩn cụ thể về chiều cao, cân nặng, số đo vòng ngực và một số tiêu chuẩn khác khiến một bộ phận công dân không được sử dụng phương tiện giao thông nữa trong khi hiện nay họ đang sử dụng an toàn và bình thường, là không phù hợp với pháp luật. Mặc khác, bản thân các quy định này đã hạn chế quyền của công dân trong việc sử dụng tài sản, ở đây là phương tiện giao thông; ngoài ra việc đặt ra quá nhiều tiêu chuẩn cũng không đảm bảo được yêu cầu về cải cách hành chính là đơn giản, thuận tiện cho người dân. Sau sự việc này, Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cho rằng: theo quy định của Luật giao thông đường bộ cũng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thì việc quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, phải do liên bộ ban hành, việc Bộ Y tế tự ban hành hai Quyết định nói trên là không đúng thẩm quyền. Việc ban hành quy phạm pháp luật trái thẩm quyền, vượt thẩm quyền còn được xem xét, đánh giá qua việc sơ kết năm năm thực hiện công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật (2003-2008) với sự tham gia của hai mươi địa phương và tất cả các Bộ, ngành do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 21/11/2008 đã cho thấy: Các Bộ, ngành và địa phương đã tự kiểm tra được 33155 văn bản (trong đó số văn bản do cấp Bộ tự kiểm tra là 6826, chiếm 21 % , cấp tỉnh tự kiểm tra được 26293 văn bản, chiếm 79%). Qua kiểm tra đã phát hiện 3460 văn bản có dấu hiệu sai trái (cấp Bộ đã phát hiện 333 văn bàn, chiếm 10%; cấp tỉnh đã phát hiện 3127 văn bản, chiếm 90%. Số văn bản này đến nay đã được xử lý hoặc đang trong quá trình xử lý theo quy định. Về công tác kiểm tra văn bản quy pháp luật theo thẩm quyền kiểm tra, xử lý, toàn ngành đã phát hiện 6879 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, chiếm 12 % số văn bản tiếp nhận để kiểm tra. Riêng Bộ Tư pháp, trong các năm qua đã kiểm tra, phát hiện 2174 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, chiếm 32% số văn bản do toàn ngành phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật và chiếm 85% số văn bản cấp Bộ phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật. Các văn bản này chủ yếu là sai về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày, một số có dấu hiệu trái pháp luật về nội dung hoặc thẩm quyền đã và đang trong quá trình xử lý theo quy định 3. Thực trang ban hành văn bản pháp luật có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, không thống nhất Không chỉ tồn tại việc ban hành văn bản trái thẩm quyền mà ngay cả nội dung của những văn bản pháp luật hiện nay còn rơi vào tình trạng chắp vá, mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất trong nội tại từng văn bản cũng như trong cả hệ thống văn bản pháp luật. Thực trạng này đã ảnh hưởng đến tính hợp pháp và tình thống nhất của hệ thống pháp luật nói chung cũng như hệ thống văn bản pháp luật nói riêng. Sự không thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo của những văn bản pháp luật có thể dễ dàng nhận thấy qua những biểu hiện cụ thể như: - Có sự chồng chéo về nội dung trong cùng một văn bản. Chẳng hạn, cũng quy định về lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, Pháp lệnh Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp quy định: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định biện pháp phát triển của sự nghiệp văn hóa, văn nghệ, biện pháp phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển y tế ở địa phương (khoản 1, 2, 4 Điều 6 Pháp lệnh); Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định các biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ, biện pháp phát triển giáo dục, đào tạo, y tế ở địa phương (khoản 1 Điều 32 Pháp lệnh); Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định biện pháp thực hiện việc phát triển văn hóa giáo dục ở địa phương (khoảng 1 Điều 58 Pháp lệnh). Với cách quy định như vậy, Hội đồng nhân dân các cấp sẽ khó tránh khỏi sự lúng túng trong việc xác định nhiệm vụ cụ thể của mình trên từng lĩnh vực và điều tất yếu xảy ra, dù không mong muốn, đó là sự chồng chéo về nhiệm vụ hoặc bỏ trống lĩnh vực quản lý ở mỗi cấp. - Nhiều văn bản cùng điều chỉnh về một chủ đề nhưng giữa chúng không thống nhất với nhau. Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 quy định các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động không được giảm mức vốn pháp định, nhưng tại Điều 34 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại quy định trong quá trình trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể cở cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định… Với quy định này, cơ cấu lại vốn pháp định có thể được hiểu theo cả hai chiều tăng hoặc giảm. Do vậy, Điều 34 của Nghị định 24/2000/NĐ-CP không thống nhất với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. - Một biểu hiện nữa của sự mâu thuẫn, chồng chéo về nội dung văn bản pháp luật đó chính là nội dung văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới không phù hợp với nội dung văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Một thực tế không thể phủ nhận là tồn tại quá nhiều những văn bản pháp luật có sự sai trái rơi vào tình trạng này, có thể điểm qua một số dẫn chứng điển hình sau: Công văn số 7696/UB-ĐT ngày 14/13/2003 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về tăng cường kiểm tra xử phạt vi phạm không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông tại Thành phố Hồ Chí Minh có quy định: đối tượng vi phạm bị giữ xe 10 ngày ngoài việc bị phạt tiền. Thế nhưng, theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 15/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 của Chính phủ quy định: chỉ áo dụng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền, chứ không quy định phải giam xe. - Tính không thống nhất về nội dung của văn bản pháp luật còn biểu hiện ở việc nội dụng của nhiều văn bản pháp luật quốc gia còn chưa phù hợp với pháp luật Quốc tế nói chung và Điều ước quốc tế nói riêng, dẫn tới những khó khăn cho việc mở rộng giao lưu của nước ta với thế giới. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ những văn bản quy phạm pháp luật mới bắt buộc phải đăng công báo còn các văn bản chỉ đạo, điều hành có hiệu lực rộng rãi như công điện, công văn của cơ quan nhà nước ở trung ương không buộc phải đăng công báo nên cơ quan phát hành công báo không có trách nhiệm đăng tải. Tuy nhiên, tại Chương VI Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ lại quy định về tính minh bạch, công khai các luật, quy định và thục tục hành chính có tính chất áp dụng chung, trong đó không chỉ là các văn bản quy phạm pháp luật mà còn có cả công văn, công điện do cơ quan nhà nước hoặc người có thầm quyền ở trung ương ban hành. Vì vậy, giữa Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật với Chương VI Hiệp định song phương nói trên đã có những quy định không phù hợp với nhau 4. Thực trạng ban hành văn bản pháp luật vi phạm về hình thức Bên cạnh sự mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất trong nội dung của nhiều văn bản pháp luật thì tình trạng ban hành văn bản pháp luật có sự sai phạm về hình thức cũng xảy ra khá phổ biến đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền cần sớm có biện pháp khác phục. Sự sai phạm về hình thức của văn bản pháp luật biểu hiện thông qua những dấu hiệu như sai về tên gọi, về thể thức của văn bản Trên thực tế, nhiều cơ quan Nhà nước đã ban hành văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật với tên gọi không đúng với quy định của pháp luật. Ví dụ như Thông báo số 770/BNNPTNT-TCCB ngày 23/3/2001 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của Cục Khuyến nông và khuyến lâm là một điển hỉnh. Nội dung của Thông báo quy định “Trung tâm khuyến nông được sử dụng con dấu và tài khoản của Cục để giao dịch theo sự phân cấp của Cục trưởng Cục Khuyến nông và khuyến lâm”. Như vậy, thông báo này có nội dung là quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành đúng hình thức theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì văn bản cần ban hành phải là một quyết định Ngoài ra, thực trạng ban hành văn bản sai về tên gọi ở nhiều địa phương vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai trong tổng số 424 văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1997 đến 30/6/2000 có 12 văn bản được ban hành với hình thức công văn, thông báo, kết luận..v. Nhiều văn bản pháp luật lại thiếu những đề mục bắt buộc thể thức của văn bản. Rất nhiều văn bản không có địa điểm, thời gian ban hành văn bản, sai phạm về cách viết tên cơ quan ban hành văn bản. Việc sử dụng căn cứ pháp lý để ban hành văn bản đôi khi còn rất tùy tiện. Có văn bản ban hành không có căn cứ pháp lý, hoặc căn cứ vào công văn, thông báo, tờ trình… có văn bản còn căn cứ vào văn bản đã hết hiệu lực pháp lý. Một vài nơi văn bản pháp luật còn không ghi ngày tháng năm ban hành, không có số và dấu của cơ quan, chữ kí không đúng cách thức 5. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để chi tiết hóa và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu Nếu như thành tựu là ban hành với số lượng lớn các văn bản cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, thì mặt hạn chế lại là việc văn bản chính bị lấn át và chịu sự lệ thuộc vào văn bản hướng dẫn thi hành. Thực tế là các văn bản như Luật, Pháp lệnh thường chỉ dừng lại điều chỉnh ở nguyên tắc chung, hầu như không thể nào áp dụng vào thực tiễn nếu như chưa có hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành, trong khi đó văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành thường được ban hành quá chậm trễ, nhanh thì khoảng một vài tháng, chậm thì có khi tới một vài năm sau khi văn bản chính đã có hiệu lực. Tình trạng luật, pháp lệnh phải chờ nghị định, thông tư là một thực tế làm cho pháp luật chậm đi vào cuộc sống. Đó cũng là một điểm bất cập trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay II. Một số nhận xét, kiến nghị để hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết. Để nâng cao hiệu lực của hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật, đồng thời khắc phục những hạn chế, những tác động tiêu cực của những văn bản pháp luật khiếm khuyết, chúng ta cần tiến hành đồng bộ những biện pháp chủ yếu sau: Nâng cao chất lượng việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Bảo đảm tính khả thi của chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bằng cách thường xuyên tiến hành có hiệu quả công tác ra soát, hệ thống pháp luật hiện hành, tổng kết, đánh giá việc thực hiện chương trình. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc lập và thực hiện chương trình cũng là một trong những biện pháp cần nhằm bảo đảm chất lượng chương trình. Cần tăng cương hoạt động khảo sát thực tế để nắm bắt toàn diện, đánh giá đúng thực trạng các quan hệ xã hội là cơ sở để hình thành nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cơ quan soạn thảo còn phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, lấy ý kiến các ngành, các cấp và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Từ đó bảo đảm các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có luận cứ khoa học, có căn cứ thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng biên soạn và bảo đảm tiến độ chuẩn bị, trình dự thảo Tăng cường hoạt động thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng như kiểm tra, rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện hành Hoạt động thẩm tra, thẩm định có vai trò quan trọng nhằm kiểm tra xem xét tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, việc tuân thủ trình tự ban hành văn bản, về ngôn ngữ, kỹ thuận pháp lý, về tính khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, tránh những sai sót có thể mắc phải trong quá trình soạn thảo. Muốn làm tốt điều này, trước hết cần nâng cao nhận thức của các chủ thể chủ trì xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về ý nghĩa, vai trò của công tác thẩm định. Về lâu dài, cần nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức làm công tác thẩm tra, thẩm định. Lựa chọn những người có trình độ pháp lý cao, bề dày thực tiễn, am hiểu các vấn đề kinh tế, xã hội, tiến tới nhà nước cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp về công tác thẩm định, tăng cường kinh phí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh, đồng thời dự toán một khoản ngân sách hằng năm cho việc xây dựng văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết. Hiện việc xây dựng nghị định, thông tư không được dự toán n
Luận văn liên quan