Đề tài Thực trạng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay

Trải qua một thời gian dài đổi mới nền kinh tế đất nước. Nền kinh tế của nước ta hôm nay đã có nhiều bước tiến đáng kể so với thời kỳ trước khi còn đặt nền kinh tế theo nối quan liêu bao cấp. Để có được sự thành công như vậy không phải chỉ do sự thúc đẩy tự động của nền kinh tế đơn thuần như: vốn, kĩ thuật, công nghệ,thị trường, mà trước hết là sự đổi mới tư duy dám đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chủ trương,chính sách và khoa học phát triển, khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị văn hoá nhân loại. Điều đó có ý rằng chính đạo đức văn hoá chính là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình đổi mới. Vậy đạo đức là gì ? Đạo đức có tầm quan trọng thế nào trong nền kinh tế, trong kinh doanh cuả nước ta. có thể nói rằng đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc chuẩn mực của xã hội.Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân tập thể trong toàn xã hội. Đạo đức là chuẩn mực của mỗi hành vi, đó là thước đo giá trị của mỗi con người, thật thà nhân hậu, đó là đạo đức .Thế còn đạo đức trong kinh doanh là sao? Trong bài tiểu luận này em xin đề cập những vấn đề đó: 1.Ý thức đạo đức là gì. 2.Vấn đề đạo đức trong kinh doanh. 3.Tìm hiểu thực trạng về đạo đức kinh doanh của nước ta hiện nay. 4. Một số tiêu chuẩn trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. 5. Những biện pháp giải quyết.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trải qua một thời gian dài đổi mới nền kinh tế đất nước. Nền kinh tế của nước ta hôm nay đã có nhiều bước tiến đáng kể so với thời kỳ trước khi còn đặt nền kinh tế theo nối quan liêu bao cấp. Để có được sự thành công như vậy không phải chỉ do sự thúc đẩy tự động của nền kinh tế đơn thuần như: vốn, kĩ thuật, công nghệ,thị trường, mà trước hết là sự đổi mới tư duy dám đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chủ trương,chính sách và khoa học phát triển, khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị văn hoá nhân loại. Điều đó có ý rằng chính đạo đức văn hoá chính là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình đổi mới. Vậy đạo đức là gì ? Đạo đức có tầm quan trọng thế nào trong nền kinh tế, trong kinh doanh cuả nước ta. có thể nói rằng đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc chuẩn mực của xã hội.Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân tập thể trong toàn xã hội. Đạo đức là chuẩn mực của mỗi hành vi, đó là thước đo giá trị của mỗi con người, thật thà nhân hậu, đó là đạo đức .Thế còn đạo đức trong kinh doanh là sao? Trong bài tiểu luận này em xin đề cập những vấn đề đó: 1.Ý thức đạo đức là gì. 2.Vấn đề đạo đức trong kinh doanh. 3.Tìm hiểu thực trạng về đạo đức kinh doanh của nước ta hiện nay. 4. Một số tiêu chuẩn trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. 5. Những biện pháp giải quyết. NỘI DUNG PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ Ý THỨC ĐẠO ĐỨC 1. THẾ NÀO LÀ Ý THỨC ĐẠO ĐỨC? 1.1 ý thức đạo đức là gì? - Ý thức đạo đức là trình độ nhận thức của con người về những hành vi ứng sử, về quan hệ người với người trong xã hội. - Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, tốt xấu, lương thiện trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những ứng xử giữa những cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng quy tắc điều chỉnh hành vi của con người thông qua dư luận xã hội. - Ý thức đạo đức là một cấu trúc phức tạp bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức. Trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố căn bản nhất. 1.2 Đạo đức là gì? Có thể nói, có nhiều quan điểm về đạo đức, dưới đây em xin giới thiệu một số quan niệm chủ yếu. a> Thuyết theo số đông ( còn gọi là thuyết vị kỷ đa số ) Thuyết này do Seremy Senthlam và Soth Stuart Mill dựa vào thế kỉ 21, họ cho rằng tiêu chuẩn đạo đức được đưa ra và phục vụ cho quyền lợi của số (đông_đại )đa số trong xã hội. Do vậy các hành vi, các quyết định được xem là có đạo đức nếu chúng phục tuân theo chuẩn mực và phục vụ lợi ích của đại đa số trong sản xuất. b> Tiếp cận theo quan điểm của chủ nghĩa cá nhân. Những người tiếp cận theo quan điểm này cho rằng chỉ có các hành vi, hoạt động vì lợi ích lâu dài của cá nhân con người thì mới là hành động có đạo đức. Quan điểm này tôn trọng các giá trị đạo đức theo quan điểm cá nhân vì mọi cá nhân và tất cả mọi người cùng hành động vì mục tiêu và lợi ích lâu dài của mình thì cùng hướng tới đích. c> Đạo đức tiếp cận trên phương diện công lý. Trên phương diện công lý giá trị đạo đức trong các hành vi các quyết định được thể hiện theo các tiêu chuẩn về sự bình đẳng, công bằng, công lý. Tuy nhiên trong vấn đề này lại có các đánh giá khác nhau về giá trị công lý. - Sự công bằng có phân biệt theo đối tượng, tức là sự đối sử không phải hoàn toàn dựa trên các tiêu chuẩn luật pháp mà còn có sự xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của từng người vì không phải với bất kỳ người nào phán xét theo luật pháp cũng đều công bằng và hợp lý. - Sự công bằng tuyệt đối, có nghĩa là các luật lệ và quy định được đặt ra một cách rõ ràng và phải được áp dụng một cách như nhau đối với con người. Quan điểm này có phần đối lập với quan điểm trên. - Sự công bằng theo nghĩa, phải được bồi hoàn hợp lý. Chẳng hạn người bị hại phải được đền bù một cách xứng đáng, và người ta sẽ không chịu trách nhiệm về những vấn đề xảy ra ngoài phạm vi quản lí của họ. Những quan điểm tiếp cận trên đây, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà được vận dụng và đưa đến phán xét về đạo đức và thể chế trong đạo đức 2. VẬN DỤNG ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH 2.1>Tầm quan trọnh của việc vận dung đạo đức trong kinh doanh Có thể nói, đạo đức là sản phẩm của một cơ sở kinh tế xã hội nhất định, là kiến trúc thượng tầng và hình thái ý thức của hình thức xã hội, là bộ phận cấu thành quan trọng bên trong kết cấu xã hội của loài người gắn bó chặt chẽ với lợi ích của con người. Bởi vậy bản chất của đạo đức và đặc trưng của nó là tính công luận xã hội. Các nhà triết học cổ đại ngày xưa coi đạo đức như là pháp luật, tức là biểu hiện của cái đúng, cái tốt, cái chuẩn mực để làm nhiệm vụ và vai trò điều chỉnh hành vi của con người, hoạt động xã hội. Ví dụ như:Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp tư sản muốn thống trị, muốn nô lệ phục tùng mình chúng không nhưng chỉ áp bức bằng đòn roi mà một phần nào đó chúng cũng thống trị bằng đạo đức. Marx đã từng nói “điều kiện tồn tại của giai cấp thống trị, biểu hiện trong luật pháp và đạo đức... bằng hình thức quan niệm (...). Các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị hoặc ít hoặc nhiều, về mặt luân lí đã biến chúng thành những thư tồn tại độc lập nào đó... để phản đối cá nhân của giai cấp bị áp bức, giai cấp thống trị đã để chúng lên thành chuẩn mự sống. Một là để làm một thứ trang sức hoặc ý thức cho sự thống trị của mình. Hai là để làm phương tiện đạo đức của sự thống trị này” (Marx, Angels .Toàn Tập.T3,Tr 492). Điều kiện tồn tại của giai ấp thống trị nói ở đây chính là quan hệ sản xuấtvà quan hệ sở hữu sản xuất của xã hội đương thời, nhưng điều kiện này biểu hiện thành các quan niệm pháp luật, đạo đức... có nghĩa là, quan niệm đạo đức được rút ra từ quan hệ xã hội và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất của một xã hội nhất định. Còn các nhà xã hội học và kinh tế học ngày nay đã tổng thuật được môt số lí thuyết kinh doanh như: thuyết vị lợi, thuyết cứu cánh, thuyết về quyền.... mà con người thương áp dùng để mang lại hiệu quả cho hoat động kinh doanh cho mình. Do đó các quan niệm về sự công bằng lương tâm trở thành những gá trị phổ biến trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiêp. Chính vì vậy, viêc vận dụng ý thức đạo đức vào xã hội nói chung và trong kinh doanh nói riêng là rất quan trọng. 2.2> Thể chế hoá đạo đức trong kinh doanh Trong thực tế kinh doanh để điều chỉnh các hành vi theo các chuẩn mực đạo đức thì vấn đề đạo đức cần phải được thể chế hoá, qua đó mà kiểm soát và chi phối được các hoạt động kinh doanh. Nội dung trong việc thể chế hoá này bao gồm: a)Trong phạm vi xã hội - Tăng cường phạm vi kiểm soát của luật pháp - Xây dựng những quy ước, quy tắc chung để thể hiện trong các hoạt động kinh doanh - Xây dựng hệ thống đánh giá về đạo đức trong phạm vi xã hội - Xây dựng các nhóm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng b)Trong phạm vi doanh nghiệp. - Thành lập bộ phận chuyên quản lí về đạo đức. Bộ phận này làm nhiệm vụ nghiên cứu đề ra các chính sách, quy tắc và thể chế về đạo đức, áp dụng trong một tổ chức kinh doanh. Ban này cũng có vai trò như một ban tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp về phương diện đạo đức kinh doanh - Xây dựng các quy chế về kinh tế đạo đức trong kinh doanh. Đó là xét xử vi phạm các quy tắc đạo đức trong kinh doanh. - Giáo dục đạo đức trong kinh doanh đó là thưc hiện chương trình giáo dục về đạo đức trong doanh nghiệp các hình thức khác nhau như : Phổ biến các quy chế và quy tắc đạo đức, mở các lớp bồi dưỡng về nhận thức và quản lí việc thưc hiện các quy tắc đạo đức... PHẦN 2: CÁC PHẠM VI CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH 1> Phạm vi xã hội: Trong phạm vi xã hội, phạm trù đạo đức thương đề cập đến các vấn đề như: Thể chế xã hội, chuẩn mực giá trị của thể chế đó, các quyền và các nghĩa vụ của con người trong hoạt động kinh doanh. 2> Phạm vi nhưng người có liên quan đến doanh nghiệp: Trong phạm vi này, các vấn đề đạo đức được đưa ra và giải quyết trong mối quan hệ giữa các đối tác, những người có liên quan mà lợi ích của họ gắn liền với kết quả quá trình kinh doanh như: Các nhà cung ứng, các khách hàng, người bỏ vốn kinh doanh. 3> Phạm vi doanh nghiệp: Đối với một doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh liên quan đến người lao động là trực tiếp, bao gồm quyền, nghĩa vụ trong lao động, các quan hệ và lợi ích kinh tế của họ trong làm việc, trong kinh doanh... 4> Trong phạm vi cá nhân: Vấn đề đạo đức ở đây được giải quyết trong quan hệ giữa người với người trong kinh doanh như : lòng trung thực, quan hệ chủ thợ, người quản lí và người bị quản lí. 5> Những quan điểm đánh giá phán xét đạo đức trong kinh doanh. Phán xét một hành vi đạo đức là một vấn đề không đơn giản, vì nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan mang tính cá nhân.Trong nhiều trường hợp rât khó phán quyết một hành động nào đó là đúng hay sai, tốt hay xấu...về đạo đức tồn tại môt thưc tế là không có sự tuyệt đối trong quan niệm về đạo đức.Về tốt xấu, đúng sai nhiêù khi câu trả lời mang tính cá nhân của người có liên quan trực tiếp đến các quyết định về hành động hay hành vi đó. Sự suy diễn logic để phán xét về đạo đức trong nhiều trương hợp không có hiệu lực, tính tương đối này có thế bị chi phối bởi nhưng quan điểm sau đây: 5.1. Thuyết tương đối đơn giản. Thuyết này cho rằng con người tự nghĩ ra và đặt ra các tiêu chuẩn để từ đó phán xét các hành vi của chính mình. Theo thuyết này, chúng ta ra các quyết định hay lựa chọn các hành vi về đạo đức thường phức tạp. Rất quan trọng nhưng lại hoàn toàn mang tính cá nhân và chỉ người trực tiếp ra các quyết định đó mới biết chắc hay thấy được tính đúng sai của các quyết định đó, khó có thể được tranh luận qua nhiều người Rõ ràng thì theo thuyết này vai trò cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề này còn được thảo luận nhiều. Phải thấy rõ một điều rằng, nếu xem xét vấn đề đạo đức như trên thì dựa vào cơ sở nào để đánh giá giá trị đạo đức của các hành vi trên bình diện xã hội. 5.2.Thuyêt tương đối về văn hoá xã hội. Lý thuyết tương đối về văn hoá xã hội cho rằng vấ đề đạo đức mang tính chất tương đối, nó phụ thuộc vào điều kiện về văn hoá và xã hội cụ thể. Hơn thế nữa, thuyết này còn cho rằng không có những tiêu chuẩn chung nào có thể giúp chúng ta đưa ra những phán xét về đạo đức trong một cộng đồng có những đặc trưng văn hoá cụ thể, mà cách tốt nhất mà ta hy vọng có thể có được là hiểu được các quy tắc và phong tục của xã hội cụ thể. Theo thuyết này, chúng ta nên cố gắng hiểu được các tiêu chuẩn hay tập quán đó thôi chứ làm sao có thể dùng bên ngoài phán xét được. Thuyết tương đối về văn hoá có thể áp dụng rộng rãi vì phạm vi kinh doanh hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp là rất rộng trên phạm vi toàn cầu, lúc họ phải hoạt động kinh doanh trên nhiều quốc gia, nhiều dân tộc khác nhau. Cái cần thiết đối với họ phải hiểu được và dựa vào các quy tắc cụ thể tại mỗi nơi đó. Nếu thuyết này là đúng thì trong điều kiện như vậy, các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lí chỉ có nghĩa vụ hiểu và tôn trọng, chấp hành theo luật pháp và tập quán địa phương đó. 6> Các quan điểm khác. Một câu hỏi đặt ra là: Theo quan điểm của thuyết tương đối có hoàn toàn đúng không? Bởi lẽ, các luật lệ hay tập quán nhiều khi mang tính chất địa phương, không phản ánh hết hoặc có thể là mâu thuẫn đối lập với các giá trị chung với tư cách giá trị của loài người. Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp phải theo những tiêu chí nào? Điều này nhiều trường hợp cũng tồn tại ngay cả trong bản thân một quốc gia một khu vực. Một vấn đề nữa cũng phải suy nghĩ lại là:Tại các quốc gia khác nhau đó, không phải bất kì hệ thống luật pháp nào của chính phủ cũng hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp, dân cư trong xã hội. Trong tình huống như vậy, doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn trong việc lựa chọn những chuẩn mực để hành động. Trong kinh doanh quốc tế, một trường hợp phức tạp khác đặt ra cho các doanh nghiệp. Đó là khi có các bất đồng giữa các quốc gia khác nhau về lập trường quan điểm. Doanh nghiệp đi theo phải này đương nhiên sẽ chống lại phái khác. Hành động như vậy rất bất lợi trong kinh doanh, vậy doanh nghiệp phải làm thế nào? Như vậy đạo đức trong kinh doanh là vấn đề không đơn giản, nhưng lại không thể xem nhẹ khi thực hiện các hoạt động kinh doanh. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà kinh doanh là cần phải có nhận thức và hiểu biiết rộng rãi về các góc độ khác nhau của vấn đề này. Nhà doanh nghiêp không thể lảng tránh hay bỏ qua các vấn đề đạo đức nhưng chỉ khi có hiểu biết và nhận thức rộng rãi thì mới có thể nâng cao được khẳ năng trong ứng xử hành vi một cách có đạo đức. PHẦN 3 : THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA 1> Tình hình chung Thực tiễn sau đổi mới kinh tế 10 năm ở nước Việt Nam đã xác nhận rằng, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã giành được về kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang gặp phải một số những khó khăn tồn tại do những thất bại vốn có của nền kinh tế thị trường sơ khai gây ra và do những yếu kém của chúng ta trong quá trình thực hiện.Trong những khó khăn tồn tại đó, chúng ta muốn nhấn mạnh thêm những sai lệch trong đạo đức kinh doanh của một số doanh nghiệp, một số nhà kinh doanh, một số cơ quan quản lí và người lao động. Do vẫn đang phải cố gắng loay hoay trên đường cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có thể nói trừ các liên doanh với nước ngoài, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chưa tạo dưng cho mình một triết lí kinh doanh chung. Cách kinh doanh phản văn hoá như là: làm hàng giả, hàng nhái, buôn lậu, lừa lọc trong kinh doanh... còn là phổ biến của nhiều doanh nghiệp mà các thông tin đại chúng, cũng như trong các cuộc thảo luận của tổ chức nhà nước và phi chính phủ, đã nêu như là các tệ nạn xã hội nổi cộm nhất. Nhiều nhà kinh doanh nước ta vì muốn chạy theo lợi nhuận mà không chú ý tới đạo đức, văn hoá trong kinh doanh nên dẫn đến thói kinh doanh giả dối, sản xuât hàng hoá kém chât lượng, tăng giá một cách tuỳ tiện vì lợi ích riêng tư, nhập lậu, trốn thuế... điều này dã làm tổn thất ngân quỹ nhà nươc một cách nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế đât nước. Kinh doanh có văn hoá và đạo đức nhằm mục đích đưa lợi ích thực tế cho cả hai bên. Mua và bán trên tinh thần thoả thuận, dựa trên đạo đức (lương thiện, thật thà luôn giữ được chữ tín), trên sự lịch thiệp sự hấp dẫn nhau, trên tinh thần tôn trọng chất lượng và định lượng của hàng hoá chứ không phải vì lợi ích riêng hay chạy theo lợi nhuận mà phản lại đạo đức kinh doanh. Trên thực tế các nhà kinh doanh nước ta vẫn chưa chú ý tới sự cần thiết và tất yếu của đạo đức kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh của mình, những áp lực kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận hiện không làm cho các doanh nghiệp chú ý tới vấn đề đạo đức hoặc coi đó là yếu tố phụ. Thực tiễn sự thành công của các nhà kinh doanh thế giới, và ở Việt Nam đã cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng kinh doanh theo đúng chuẩn mực của đạo đức kinh doanh là yếu tố quyết định sự thành công bền vững trong kinh doanh. Chính vì vậy chúng ta cho rằng ở Việt Nam muốn kinh doanh thành công kìm chế những tốn thất, thiệt hại cho cả nhà kinh doanh cả người tiêu dùng và cả xã hội thì cần thiết phải xây dựng đúng các chuẩn mực đúng về đạo đức kinh doanh. phải tạo cho mình một phong cách kinh doanh riêng, có đạo đức và đậm đà bản sắc dân tộc, để được dần dần từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, đạo đức trong kinh doanh ngày càng trở thành mối quan tâm chú ý đặc biệt của các nhà doanh nghiệp. Trong cuốn sách dự báo thế kỉ 21 dày hơn 1000 trang của các nhà khoa học Trung Quốc khi đề cập đến diện mạo của doanh nghiệp trong thế kỉ 21 đã đưa ra lời cảnh báo rằng. Nếu xí nghiệp cứ kiên trì bằng mọi cách mà không chú ý tới yếu tố văn hoá đạo đức thì không thể tiếp tục phát triển được. Các nhà khoa học đã kết luận rằng trong xã hội thông tin việc xây dựng văn hoá trong kinh doanh “đạo đức còn quan trọng hơn sự phát triển kinh tế mũi nhọn và cải thiện thể chế của xí nghiệp” ( xem sách đã dẫn, Tr443). Kinh tế và kinh doanh ở Việt nam tuy còn chưa phát triển mạnh nhưng điều đó không có nghĩa không cần thiết quan tâm tới đạo đức trong phát triển trong kinh doanh. Trái lại các doanh nghiệp cần thiết và có thể sớm tạo dựng sắc thái đạo đức trong hoạt động kinh doanh của mình. Nếu có định hướng và thực hiện tốt hơn đây sẽ là lợi thế của nước đi sau để sớm bắt kịp cũng như hội nhập nền kinh tế thế giới. 2> Một số tiêu chuẩn trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. -Thực hiện đầy đủ quyền của mình trong toàn bộ quá trình kinh doanh và các văn bản dưới luật như: pháp lệnh, nghị định và các chính sách chế độ nhà nước và phải chủ động phát hiện. Đề xuất với nhà nước bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp lí để tiến tới kinh doanh đúng pháp luật. - Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải đưa ra 3 vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? phải xác định mục tiêu, đề ra những phương hướng cụ thể. - Phải sử dụng nguồn lực một cách đầy đủ và hợp lí để mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp của mình, cho người lao động và cho xã hội. - Xây dựng các mối quan hệ hợp tác bình đẳng trong kinh doanh, phát triển cạnh tranh lành mạnh trong cộng đồng kinh doanh, giữa các thành phần kinh tế với nhau, cạnh tranh để thúc đẩy nhau phát triển, không có cạnh tranh không có phát triển, nhưng phải cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Nhà nước phải có biện pháp hữu hiệu để chống buôn lậu, làm hàng giả, hối lộ, trốn lậu thuế, tham nhũng, cửa quyền, độc quyền, cạnh tranh phải bằng sức mạnh của hàng hoá trên thị trường chứ không phải cạnh tranh bằng quyền lực, bằng sự áp đặt, bằng sự ưu đãi, chèn ép. - Trong kinh doanh trước hết các chủ kinh doanh phải chữ tín cho khách hàng của mình, đối với người lao động làm việc cho mình, tin tưởng ở họ khuyến khích tính sáng tạo và tài năng của mọi người trong những công việc cụ thể được giao, có chính sách và biện pháp khuyến khích bằng vật chất và tinh thần đúng mức đối với thành quả lao động mà họ đem lại cho doanh nghiệp. Kính trọng và đối xử công bằng đối với người lao động. - Các nhà kinh doanh phải biết lấy tiêu chuẩn năng suất chất lượng, giá thành, lợi nhuận, hiệu quả để đánh giá những thành công, thất bại của mình và trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của lao động theo kết quả của họ. Trung thành và nhất quán trong công việc và giữ mối liên hệ tin cậy bền vững với người lao động. Doanh nghệp phải là chỗ dựa tin cậy của người lao động và ngược lại. PHẦN IV: BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT Để xây dựng và thực hiện đày đủ những tiêu chuẩn để đạo đức trong kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta cần: - Sớm hình thành được môn học về đạo đức kinh doanh để tổ chức giáo dục cho các đối tượng khác nhau, như sinh viên, các cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp và các viên chức nhà nước. - Phải vận dụng tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh vào việc giáo dục trong các môn khoa học chuyên nghành cho thích hợp. - Phải đưa tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh vào các văn bản pháp luật, trong các chính sách chế độ của nhà nước và của nghành, trong các điều lệ và nội quy hoạt động của doanh nghiệp. - Tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. - Tiến hành kiểm tra, đánh giá, khen thưởng và xử phạt đúng mức với những người tổ chức làm tốt hoặc vi phạm. - Phải tiến hành xây dựng trung tâm quốc gia nghiên cứu và tư vấn về đạo đức kinh doanh và tham gia vào các tổ chức quốc tế về đạo đức kinh doanh. LỜI KẾT Mọi nền sản xuất suy cho cùng đều nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao các lợi ích vật chất và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy hành động của con người. Nhưng sản xuất kinh doanh dù thế nào đi chăng nữa thì lợi ích trực tiếp vẫn là lợi ích vật chất không ai tiến hành sản xuất kinh doanh mà không
Luận văn liên quan