Đề tài Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

Ngày nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập nền kinh tế. Nhìn lại thời kỳ chiến tranh chúng ta có quyền tự hào vì sự hi sinh cao quý của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đã làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Bởi vậy nhiệm vụ đem lại cơm no, áo mặc, hạnh phúc cho nhân dân đặc biệt là người lao động làm nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ đổi mới. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào sự cống hiến đông đảo của người lao động. Họ xứng đáng được hưởng một cuộc sống ổn định, đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm tới đời sống của người lao động trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là một hợp phần quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia. Bởi bảo hiểm xã hội hoạt động dựa trên nguyên tắc “có thu có chi” nên đóng vai trò như là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nó góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong trường hợp: ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết do tai nạn, bệnh nghề nghiệp, rủi ro và khó khăn khác. Mặt khác, bảo hiểm xã hội cũng là một chính sách tài chính nhằm huy động sự đóng góp của người lao động đang làm việc để hình thành một quỹ tài chính tập trung được bảo hiểm xã hội toàn và tăng trưởng để thực hiện các chính sách đối với người lao động. Với mục đích tìm hiểu và nâng cao kiến thức về một chính sách lớn có vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của nước ta nên em chọn đề tài: “Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”. Do lượng kiến thức có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót mông thầy cô thông cảm. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội (BHXH). Chương II: Thực trạng tổ chức BHXH ở Việt Nam hiện nay. Chương III: Kiến nghị về quá trình triển khai công tác BHXH.

doc26 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 8884 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập nền kinh tế. Nhìn lại thời kỳ chiến tranh chúng ta có quyền tự hào vì sự hi sinh cao quý của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đã làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Bởi vậy nhiệm vụ đem lại cơm no, áo mặc, hạnh phúc cho nhân dân đặc biệt là người lao động làm nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ đổi mới. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào sự cống hiến đông đảo của người lao động. Họ xứng đáng được hưởng một cuộc sống ổn định, đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm tới đời sống của người lao động trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là một hợp phần quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia. Bởi bảo hiểm xã hội hoạt động dựa trên nguyên tắc “có thu có chi” nên đóng vai trò như là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nó góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong trường hợp: ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết do tai nạn, bệnh nghề nghiệp, rủi ro và khó khăn khác. Mặt khác, bảo hiểm xã hội cũng là một chính sách tài chính nhằm huy động sự đóng góp của người lao động đang làm việc để hình thành một quỹ tài chính tập trung được bảo hiểm xã hội toàn và tăng trưởng để thực hiện các chính sách đối với người lao động. Với mục đích tìm hiểu và nâng cao kiến thức về một chính sách lớn có vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của nước ta nên em chọn đề tài: “Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”. Do lượng kiến thức có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót mông thầy cô thông cảm. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội (BHXH). Chương II: Thực trạng tổ chức BHXH ở Việt Nam hiện nay. Chương III: Kiến nghị về quá trình triển khai công tác BHXH. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Vân đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái niệm BHXH. Theo luật Bảo hiểm xã hội năm 2006: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.”. 1.2. Bản chất của BHXH. Bảo hiểm xã hội là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống bảo hiểm xã hội có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát trỉên của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển không thể có một hệ thống bảo hiểm xã hội vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển thì hệ thống bảo hiểm xã hội càng đa dạng các chế độ bảo hiểm xã hội càng mở rộng hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng phong phú. 1.3. Đối tượng tham gia của BHXH. Tuy đã ra đời từ lâu nhưng đối tượng của BHXH vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng bảo hiểm xã hội và đối tượng tham gia BHXH. Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động. Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người lao động sử dụng lao động. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, đối tượng áp dụng bao gồm: * Người lao động tham gia BHXH là công dân Việt Nam, trong độ tuổi lao động, gồm có: - Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên. - Cán bộ, công chức, viên chức. - Công nhân quốc phòng, công nhân công an. - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân. - Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn. - Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc. * Người sử dụng lao động tham gia BHXH bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. 1.4. Các mối quan hệ trong BHXH. Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Mối quan hệ BHXH là mối quan hệ dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. * Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. + Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. + Người sử dụng lao động có trách nhiệm tham gia bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê. Đồng thời người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính mình, ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với những tập đoàn người sử dụng lao động để đảm bảo hiểm xã hội quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh ngu cầu BHXH. + Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho hoạt động quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo đảm giá trị của đồng vốn và hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra Nhà nước tham gia bảo hiểm xã hội còn với tư cách là một chủ thể quản lý định ra những chế độ, những chính sách, những định hướng cho các hoạt động bảo hiểm xã hội. * Bảo hiểm xã hội đó là bên nhận bảo hiểm xã hội từ những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bên bảo hiểm xã hội là một tổ chức do nhà nước đã lập ra nhận đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập quỹ bảo hiểm xã hội. Bên bảo hiểm xã hội có trách nhiệm thực thi trả trợ cấp cho bên được bảo hiểm xã hội khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ bảo hiểm xã hội phát triển. * Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và người thân của họ. Bên được bảo hiểm xã hội được quyền nhận trợ cấp khi phát sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội để bù đắp những thiếu hụt về thu nhập do các rủi ro được bảo hiểm gây ra. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế thị trường bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể đồng thời là bên được bảo hiểm xã hội. Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia bảo hiểm xã hội vừa là người được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội vì họ đóng phí bảo hiểm cho chính họ. Tóm lại : Bảo hiểm xã hội thể hiện mối quan hệ tổng thể giữa nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và thể hiện tính nhân văn cao cả trong việc chia sẻ rủi ro và ổn định cuộc sống cho người lao động. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Mô hình tổ chức BHXH. Theo nghị định 19 của Chính phủ ban hành ngày 16-2-1995 thì hệ thống BHXH được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng chính phủ. Chính phủ giao cho Bộ lao động – Thương binh và xã hội xây dựng trình Chính phủ và quốc hội ban hành pháp luật về BHXH. Đồng thời Bộ Lao động – Thương binh và xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ - quản lý nhà nước về BHXH. Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan quản lý về sự nghiệp BHXH. Do vậy nó có nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Tổ chức thu BHXH và tổ chức chi trả BHHX cho các đối tượng được hưởng. - Xây dựng và tổ chức thực hiện những dự án và các biện pháp bảo hiểm xã hội tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. - Kiểm tra thực hiện thu chi và giải quyết các khiếu nại về BHXH. Về mặt tổ chức thì BHXH được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương và chia làm 3 cấp. Đứng đầu là Bảo hiểm xã hội Việt Nam, sau đó là BHXH cấp tỉnh và BHXH cấp huyện. 2.2. Thực trạng công tác thu và chi BHXH. 2.2.1. Công tác thu. Đây là nhiệm vụ được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất, có tính quyết định hình thành, tồn tại và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy, ngay từ khi nhận bàn giao về số lượng các đơn vị, cơ quan đóng trên địa bàn và số lượng người lao động, cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố phải tập trung nắm và kê khai đầy đủ để lên kế hoạch cho phù hợp. * Nội dung chính của công tác quản lý thu BHXH bao gồm: - Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo địa bàn hành chính huyện, tỉnh kể cả những người buôn bán nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thuê từ một lao động trở lên. - Quản lý danh sách lao động trong từng đơn vị có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. - Quản lý mức lương hoặc tiền công theo hợp đồng của từng người lao động làm căn cứ đóng BHXH. - Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công của số lao động tham gia BHXH. - Quản lý mức đóng BHXH của từng đơn vị và từng người lao động trên cơ sở danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị, mức lương hoặc tiền công của từng người lao động và tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong từng đơn vị. Tất cả các chỉ tiêu này phải ăn khớp với nhau thì BHXH ở Việt Nam mới chấp nhận. - Cấp sổ cho người lao động và hàng năm ghi bổ sung vào sổ BHXH theo các tiêu thức ghi trong sổ. - Lập dự toán thu BHXH cho năm sau. - Tổ chức thu BHXH. Đây là nội dung chính của công tác quản lý thu BHXH. Hiện nay, BHXH Việt Nam đang áp dụng hai hình thức thu BHXH: + Thu qua tài khoản: là hình thức các đơn vị sử dụng lao động hàng tháng nộp tiền BHXH vào tài khoản của BHXH Việt Nam mở tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây là hình thức thu chủ yếu của BHXH Việt Nam. + Thu bằng tiền mặt: Hình thức này chủ yếu áp dụng đối với thu BHYT tự nguyện. Từ 01/01/2008, thực hiện loại hình BHYT tự nguyện thì cũng có thể phải áp dụng hình thức thu qua tài khoản đối với các đối tượng này. Nhưng dù thu qua tìa khoản hay thu bằng tiền mặt thì tất cả mọi người thu đều được tập trung vào tài khoản của BHXH Việt Nam. * Quy trình quản lý thu BHXH: - Đối với các đơn vị sử dụng lao động lần đầu tiên tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH gồm các bước công việc theo thứ tự sau: + Công văn gửi BHXH tỉnh, thành phố xin đăng ký tham gia BHXH. + Lập bảng kê khai danh sách số lao động tham gia BHXH. + Sauk hi nhận được hồ sơ của đơn vị sử dụng lao động, BHXH tỉnh, thành phố thẩm định tính hợp lệ của hồ sơ, đặc biệt phải tính toán kỹ mức đóng BHXH của từng người lao động và tổng mức đóng BHXH của cả đơn vị, sau đó tiến hành cấp sổ và tổ chức thu BHXH. - Đối với các đơn vị sử dụng lao động đang tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH gồm các bước sau: + Lập bảng kê khai danh sách lao động tham gia BHXH. + Lập bảng kê khai tăng, giảm lao động và quỹ lương đóng BHXH. + BHXH tỉnh tiến hành thẩm định bảng kê khai của đơn vị sử dụng lao động và tiến hành thu BHXH, cấp sổ BHXH bổ sung cho các đối tượng mới tham gia BHHX. - Quy trình nộp tiền BHXH: + Hàng tháng, đơn vị sử dụng lao động trích từ tiền lương hoặc tiền công của người lao động và trích tỷ lệ phần trăm tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH thuộc trách nhiệm đóng BHXH của người sử dụng lao động theo mức trích quy định tại Luật BHXH (trong đó, đơn vị giữ lại 2% của quỹ ốm đau, thai sản để kịp thời chi trả chế độ) nộp vào tài khoản chuyên thu BHXH của BHXH huyện. Từ ngày 10 đến 25 hàng tháng, BHXH huyện chuyển số tiền mà các đơn vị đã nộp lên tài khoản chuyên thu BHXH tỉnh. Riêng tháng cuối năm chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH của huyện lên BHXH trước 24h ngày 31/12. Hàng tháng từ ngày 10 đến ngày 20 và ngày cuối tháng, cơ quan BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH của tỉnh về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam. Nếú số dư trên tài khoản của tiền vượt quá 5 tỷ đồng thì BHXH tỉnh phải chuyển về tài khoản của BHXH Việt Nam, ngay trong ngày. Riêng tháng cuối năm, BHXH tỉnh phải chuyển hết số tiền thu BHXH về BHXH Việt Nam trước 24h ngày 31/12. 2.2.2. Công tác chi. Chi BHXH là quá trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH nhằm ổn định cuộc sống của người tham gia BHXH và đảm bảo hiểm xã hội các hoạt động của BHXH Việt Nam. * Quản lý chi BHXH bao gồm các nội dung chủ yếu sau: - Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. - Quản lý điều kiện hưởng và mức hưởng BHXH hàng tháng của các đối tượng được hưởng BHXH. - Quản lý việc chi trả cho các chế độ BHXH. - Lập báo cáo quyết toán, báo cáo thống kê tình hình chi trả trợ cấp BHXH theo quy định của Luật kế toán và Luật Thống Kê. * Công tác chi trả thường xuyên hàng tháng: - Hàng năm, BHXH huyện lập dự toán chi trả BHXH của các đối tượng trên địa bàn gửi BHXH tỉnh, BHXH tỉnh tổng hợp dự toán chi toàn tỉnh gửi BHXH Việt Nam. - Sau khi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, BHXH Việt Nam chuyển tiền về tài khoản của BHXH tỉnh, sau đó BHXH tỉnh chuyển tiền về BHXH huyện theo tiến độ chi trả. - Hàng tháng, BHXH huyện thông báo danh sách đối tượng tăng, giảm về BHXH tỉnh. BHXH căn cứ vào danh sách chi trả tháng trước, danh sách chi tăng, giảm của huyện để lập danh sách, chi trả gửi BHXH huyện. Căn cứ vào danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành chi trả trợ cấp cho từng người theo mức trợ cấp mà BHXH tỉnh đã ghi trong danh sách chi trả. Danh sách chi trả được thành lập hàng và được coi là lệnh chi trả mà BHXH tỉnh giao cho BHXH huyện phải tổ chức thực hiện công tác chi trả. - Sau khi nhận được danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành các nghiệp vụ chi trả. - Sauk hi nhận được danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành các nghiệp vụ chi trả. - Kết thúc việc chi trả, BHXH huyện lưu danh sách chi trả có chữ ký của người nhận tiền tại BHXH huyện đồng thời báo cáo tổng số tiền đã chi trả về BHXH tỉnh, tỉnh tổng hợp các huyện và báo cáo các cơ quan cấp trên theo quy định. * Các khoản chi một lần, chi ngắn hạn của chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tử tuất, BHXH Việt Nam có trách nhiệm chi kịp thời cho đối tượng. * Chi trả quỹ ốm đau, thai sản: Hàng tháng, chỉ sử dụng đóng 2% của quỹ tiền lương, tiền công đóng vào quỹ ốm đau, thai sản và được tạm giữ lại để chi trả kịp thời cho những người tham gia BHXH trong đơn vị bị ốm đau, thai sản theo quy định tại Luật BHXH. Hàng quý, các đơn vị sử dụng lao động phải quyết toán với cơ quan BHXH số tiền đã chi. Phần thiếu hoặc thừa sẽ được thanh toán vào tháng đầu của quý sau. 2.3. Quản lý BHXH. 2.3.1. Công tác đàu tư và bảo hiểm xã hội toàn tăng trưởng quỹ BHXH. Một đặc điểm của quỹ BHXH ở nước ta là được hình thành chủ yếu là sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động, được dồn tích qua nhiều năm và có tính chất chuyển giao sử dụng giữa các thế hệ. Vì vậy quỹ có số dư tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn trong một khoảng thời gian dài. Số dư trong quỹ BHXH lớn không có nghĩa là dư thừa như một số người hiểu nhầm mà một trong những đặc điểm của quỹ BHXH là thời gian chi rất dài và có xu hướng tăng lên rất nhanh. Đó là chưa kể đến mức sống dân cư không ngừng tăng nên đòi hỏi mức trợ cấp cũng phải được điều chỉnh càng làm cho quỹ BHXH phải chi nhiều hơn. Với mức đóng góp hiện nay và không có sự thay đổi về chính sách thì theo các chuyên gia tài chính chỉ đến năm 2015 là quỹ BHXH không đủ khả năng thanh toán. Do vậy cần thiết phải có chiến lược ngay từ bây giờ song song với việc nâng mức đóng góp, BHXH cần phải tăng cường công tác đầu tư để tăng trưởng quỹ. Khi tiến hành đầu tư quỹ BHXH phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tính hiệu quả, độ an toàn cao. - Đảm bảo khả năng thanh toán, và lợi ích xã hội. Hiện nay, theo quy định của Chính phủ cho phép đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và của các Ngân hàng thương mại của Nhà nước. - Cho các Ngân hàng phát triển Việt Nam và Ngân hàng chính sách xã hội vay. - Cho ngân hang thương mại của Nhà nước vay. - Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia. - Các hình thức đầu tư khác do pháp luật quy định. Sở dĩ nhà nước quy định những lĩnh vực này là do đây là những lĩnh vực có ít rủi ro, lãi ổn định đảm bảo hiểm xã hội khả năng chi trả cho cơ quan BHXH. Tổng số tiền nhàn rỗi cho vay tính đến 31/12/2008 là 4.072.069 triệu đồng (nguồn: Thống kê tài chính BHXH Việt Nam năm 2008) trong đó: - Bộ tài chính (kho bạc): 1.047.636 triệu đồng. - Ngân hang công thương Việt Nam: 350 tỷ. - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển Việt Nam: 400 tỷ đồng. - Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia 300 tỷ. - Tổng cục đầu tư và phát triển 700 tỷ. - Mua tín phiếu và kỳ phiếu 643.433 triệu đồng. Số lãi đến ngày 31/12/2008 là 209,719 tỷ. Tổng thu từ quý 4/2005 đến 31/12/2008 là 4.045.892 triệu đồng. Số dư tài khoản tính đến 31/12/2008 là 15.622.942 triệu đồng. Lãi thu được tính đến 31/12/2008 là 2.172.250 triệu đồng. Ngoài những kết quả đã đạt được thì chúng ta còn thấy rằng hoạt động đầu tư trong thời gian còn đơn giản và nghèo nàn về khối lượng vốn cho vay và lãi suất. Nhìn chung hoạt động đầu tư trong những năm qua thì phần sinh lời cũng chỉ bằng phần trượt giá tức là hoạt động đầu tư chỉ bảo được vốn. Số vốn nhà dỗi của bảo hiểm xã hội tăng nên chủ yếu là nhờ hoạt động thu được mở rộng. Bên cạnh đó nền kinh tế non kém, khả năng hấp thụ vốn là khả năng sinh lời của nền kinh tế là chưa cao, thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển đồng bộ. BHXH Việt Nam chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đủ khả năng hậu thuẫn cho hoạt động đầu tư, chưa có tổ chức chuyên trách BHXH Việt Nam trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư. Thiếu các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực phân tích đầu tư, phân tích kinh tế, toán bảo hiểm xã hội hiểm và cuối cùng là mối quan hệ của BHXH Việt Nam với các tổ chức BHXH các nước còn hạn chế. Trong những năm tới đòi hỏi việc đầu tư có hiệu quả để không chỉ bảo hiểm xã hội toàn mà còn tăng trưởng quỹ BHXH. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu chi trả trong tương lai ngày một cao, tạo điều kiện cân đối quỹ. Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường để đầu tư vốn nhà rỗi đạt hiệu quả cao BHXH cần giải quyết tốt các vấn đề sau: Thứ nhất: Cần phải xác định rõ nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư là số nhàn rỗi từ quỹ BHXH, nó dùng để đầu tư vào các loại tài sản chính (ngắn hạn và dài hạn). Ta cần chia nguồn vốn đầu tư thành 2 loại: + Nguồn đầu tư ngắn hạn. + Nguồn đầu tư dài hạn. Nguyên tắc là vốn đầu tư dài hạn chỉ được phép đầu tư vào các tài sản đầu tư tài chính dài hạn hoặc ngắn hạn. Còn các nguồn vốn ngắn hạn chỉ được đầu tư vào các tài sản tài chính ngắn hạn. Thứ hai: Quy định rõ danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư cho từng danh mục. Để đầu tư an toàn và có lợi nhuận cao ngoài những danh mục đầu tư theo quy định của Chính phủ. Nhà nước cần cho phép BHXH được quyền xem xét lựa chọn các phương án đầu tư thích hợp. Tuy nhiên việc quy định các danh mục các danh mục và hạn mức đầu tư cần phải đảm bảo hiểm xã hội khả năng an toàn vốn, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư, ưu tiên đầu tư vốn với tỉ trọng cao và những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh. Trong các danh mục đầu tư cũng phải nhận định rõ danh mục đầu tư dài hạn và danh mục đầu tư ngắn hạn. Thứ ba: Đa dạng hoá loại hình và công cụ đầu tư. Chính phủ ưu tiên cho quỹ BHXH được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh và góp cổ phần vào các ngành khai thác chế biến dầu khí, khu công nghiệp. Thứ tư: Phải có quan điểm đánh giá dự án đầu tư một cách đúng đắn. Trước khi lập phải đánh giá so sánh các dự án đầu tư, nắm rõ các mục tiêu đầu tư quỹ BHXH. Thứ năm: Thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư quỹ BHXH. BHXH Việt Nam sớm đề nghị thành lập tổ chức chuyên trách giúp đỡ cho tổng giám đốc BHXH Việt Nam thực hiện các hoạt động đầu tư. Hình thức thành lập có thể là công ty con hay là thành lập một ban chuyên trách trực thuộc. Trước tiên nên thành lập ban đầu tư và cơ cấu tổ ch
Luận văn liên quan