Đề tài Thực trạng và triển vọng xuất khẩu lao động Việt Nam

Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào và trẻ. Quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn chiếm tỷ lệ lớn, thu nhập của đại bộ phận dân cư vẫn còn ở mức thấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giải quyết tốt nhu cầu việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp giải quyết việc làm được nhiều nước đang phát triển trên thế giới quan tâm, và khai thác tối đa. Ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang thu được những kết quả quan trọng: Mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, thu về hàng tỷ USD, đời sống của gia đình có người lao động xuất khẩu được cải thiện đáng kể, góp phần xóa đóí giảm nghèo, bản thân người lao động sau khi lao động ở nước ngoài về lại có được một nghề mới; cơ cấu lao động nói chung và cơ cấu lao động nông thôn ở những địa phương có nhiều người đi xuất khẩu lao động nói riêng có sự chuyển đổi rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của Việt Nam thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam trong thời gian tới.Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động là việc làm hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn trên, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và triển vọng xuất khẩu lao động Việt Nam”. Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu lao động Chương 2: Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam Chương 3: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động trong những năm tới

doc42 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4894 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và triển vọng xuất khẩu lao động Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào và trẻ. Quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn chiếm tỷ lệ lớn, thu nhập của đại bộ phận dân cư vẫn còn ở mức thấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giải quyết tốt nhu cầu việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp giải quyết việc làm được nhiều nước đang phát triển trên thế giới quan tâm, và khai thác tối đa. Ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang thu được những kết quả quan trọng: Mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, thu về hàng tỷ USD, đời sống của gia đình có người lao động xuất khẩu được cải thiện đáng kể, góp phần xóa đóí giảm nghèo, bản thân người lao động sau khi lao động ở nước ngoài về lại có được một nghề mới; cơ cấu lao động nói chung và cơ cấu lao động nông thôn ở những địa phương có nhiều người đi xuất khẩu lao động nói riêng có sự chuyển đổi rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của Việt Nam thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam trong thời gian tới.Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động là việc làm hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn trên, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và triển vọng xuất khẩu lao động Việt Nam”. Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu lao động Chương 2: Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam Chương 3: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động trong những năm tới CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG MỘT SỐ KHÁI NIỆM Nguồn lao động Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Nguồn lao động được nghiên cứu ở đây là nhằm vào khía cạnh khác: Trước hết nó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, sau nữa xét về khía cạnh kinh tế - xã hội, nó là khả năng lao động của xã hội. Ngoài ra, còn có thể hiểu nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi). Việc làm Khái niệm và phân loại. Theo bộ luật lao động 1994 Điều 13: “ Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức: + Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó. + Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành công việc đó. + Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. Các đặc trưng của việc làm Nghiên cứu các đặc trưng của việc làm chính là việc tìm hiểu cơ cấu hoặc cấu trúc dân số có việc làm theo các tiêu chí khác nhau nhằm làm rõ các khía cạnh của vấn đề việc làm. Bao gồm có: + Cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi. Cho biết trong số những người có việc làm thì tỉ lệ nam, nữ là bao nhiêu; độ tuổi nào là lực lượng lao động chính (chiếm phần đông trong lực lượng lao động). + Sự thay đổi quy mô việc làm theo vùng (nông thôn- thành thị). Cho biết khả năng tạo việc làm ở hai khu vực này cũng như tiềm năng tạo thêm việc làm mới trong tương lai. + Cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế. Cho biết ngành kinh tế nào trong nền kinh tế quốc dân có khả năng thu hút được nhiều lao động nhất ở hiện tại và tương lai; sự dịch chuyển lao động giữa các ngành này. Trong nền kinh tế quốc dân ngành kinh tế được chia làm 3 khu vực lớn. Khu vực I: ngành nông nghiệp và lâm nghiệp Khu vực II: ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, khai thác mỏ, năng lượng Khu vực III: dịch vụ. + Cơ cấu việc làm theo nghề. Cho biết nghề nào hiện tại đang tạo ra được nhiều việc làm nhất và xu hướng lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của người lao động. + Cấu trúc việc làm theo thành phần kinh tế. Cho biết hiện tại lực lượng lao động đang tập trung nhiều nhất trong thành phần kinh tế nào và xu hướng dịch chuyển lao động giữa các thành phần kinh tế trong tương lai. Thành phần kinh tế được chia dựa trên quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. + Trình độ văn hoá và đào tạo của dân số theo nhóm tuổi và giới tính, theo vùng Sự phân chia ở trên chỉ mang tính chất tương đối với mục đích để người đọc mường tượng được vấn đề. Trong thực tế các đặc trưng trên luôn có tác động qua lại lẫn nhau.Ví dụ: ta có cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi ở khu vực thành thị; cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi theo vùng, lãnh thổ… Các chỉ tiêu đo lường Tỷ lệ người có việc làm: là tỷ lệ % của số người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế. Tỷ lệ người có việc làm đầy đủ: là tỷ lệ % của số người có việc làm đầy đủ so với dân số hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế (DSHĐKT) là một bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp sức lao động cho sản xuất của cải vật chất và dịch vụ. DSHĐKT = Những người đang làm việc + những người thất nghiệp. Những người đang làm việc = Những người trong độ tuổi lao động + ngoài độ tuổi lao động đang tham gia làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế được tính theo công thức Tvl(%) = Nvl/Dkt Trong đó: .Tvl: % người có việc làm . Nvl: Số người có việc làm . Dkt: Dân số hoạt động kinh tế Những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu tìm việc nhưng hiện tại chưa tìm được việc Tỉ lệ người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế được tính theo công thức: Ttn(%) =Ntn/Dkt Trong đó: . Ttn: Tỷ lệ thất nghiệp . Ntn: Số người thất nghiệp . Dkt: Dân số hoạt động kinh tế Thị trường lao động: Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường. Một thị trường lao động tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương ứng với lượng cung về lao động. - Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động (tiền lương), khi giá cả tăng ( hoặc giảm) sẽ làm cho cầu về lao động giảm (hoặc tăng). - Cung về lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá cả tăng, lượng cung lao động sẽ tăng và ngược lại - Điểm cân bằng cung - cầu là điểm gặp nhau của đường cung- cầu (điểm E). Tại đó lượng cầu bằng lượng cung (hình 1.1). SL W E W* DL L* L (Hình 1.1) Thị trường lao động trong nước: Thị trường lao động trong nước là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia Thị trường lao động quốc tế Thị trường lao động quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Khái niệm hình thức xuất khẩu lao động: Là cách thức thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước quy định. Các hình thức Ở Việt Nam cho đến nay đã tồn tại một số hình thức sau: Thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: xuất khẩu lao động chủ yếu thông qua các hiệp định liên chính phủ và nghị định thư Bước sang thời kỳ mới_ thời kỳ xuất khẩu lao động chịu tác động của thị trường thì nó bao gồm các hình thức sau (theo Luật số 35/2002/QH10 về sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao Động – Điều 134a): Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết với bên nước ngoài Nội dung: Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động. Đặc điểm: + Các doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ tuyển chọn đến đào tạo đến đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài + Các yêu cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra + Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận + Quá trình làm việc là ở nước ngoài, người lao động chịu sự quản lý trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài; + Quyền và nghĩa vụ của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm. Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài: Nội dung: Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng sẽ phát triển trong tương lai cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đặc điểm: + Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ tuyển chọn lao động Việt Nam nhằm thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên doanh_ liên kết giữa Việt Nam và nước ngoài + Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra + Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc thông qua các tổ chức cung ứng lao động trong nước + Doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam trực tiếp đưa lao động đi nước ngoài, quản lý lao động ở nước ngoài cũng như đảm bảo các quyền lợi của người lao động ở nước ngoài. Vì vậy quan hệ lao động tương đối ổn định + Cả người sử dụng lao động Việt Nam và lao động Việt Nam đều phải tuân thủ theo quy định của pháp luật, phong tục tập quán của nước ngoài. Các hình thức khác theo quy định của chính phủ: Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài: Hình thức này ở Việt Nam còn rất ít vì nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ học vấn, ngoại ngữ tốt, giao tiếp rộng, tìm hiểu rõ các thông tin về đối tác XKLĐ tại chỗ là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm: Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam. Hợp tác lao động và chuyên gia: Đây là hình thức được áp dụng đối với các nước Trung Đông và Châu Phi trong việc cung ứng lao động và chuyên gia sang làm việc tại một số nước. Số lao động này có thể đi theo các đoàn, đội hay các nhóm, cá nhân… Và một số hình thức khác VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM Tích cực: Khi đánh giá về vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm trước đây và hiện tại, không một ai có thể phủ nhận những gì mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đóng góp. Xuất khẩu lao động không những vừa đạt được mục tiêu về kinh tế, mà còn đạt được cả mục tiêu về xã hội. Về mục tiêu kinh tế: Trên góc độ lợi ích kinh tế, hoạt động xuất khẩu lao động được xem xét theo 3 chủ thể tham gia đó là Người lao động, Doanh nghiệp là XKLĐ và Nhà nước. Lợi ích của người lao động: Tăng thu nhập cho người lao động Thu nhập là mục tiêu hàng đầu của người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tuỳ theo luật pháp và thu nhập bình quân của nước sử dụng lao động, người lao động đi làm việc theo các ngành nghề được tuyển chọn trong thời hạn nhất định và được hưởng một khoản thu nhập được qui định trong hợp đồng lao động. Thu nhập của người lao động có xu hướng tăng lên hàng năm trên cơ sở năng xuất lao động của họ. Như vậy sau hai năm làm việc, nếu người lao động hoàn thành các cam kết theo hợp đồng đã ký giữa người sử dụng lao động với công ty XKLĐ thì người lao động có thể tích lũy được một khoản tiền tương đối lớn, Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Với số tiền tích luỹ được, nhiều người lao động không chỉ xóa được nghèo mà còn có khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, ổn định kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm mới góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động khác khi tái hòa nhập cộng đồng. Lợi ích của doanh nghiệp XKLĐ: Tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp Doanh nghiệp XKLĐ là nơi tạo ra lợi ích cho người lao động và hiệu quả kinh tế quốc dân cho Nhà nước. Thông thường, khi hoàn thành dịch vụ của mình tổ chức xuất khẩu lao động nhận được một khoản chi phí dịch vụ từ tiền lương cơ bản của người lao động là không quá 1 tháng lương theo mỗi năm làm việc (Nghị định 81 hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài). Khoản thu này đủ để các tổ chức XKLĐ trang trải các khoản chi phí khai thác và tìm kiếm thị trường, tuyển chọn lao động, duy trì bộ máy hoạt động và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách theo luật định. Lợi ích của Nhà nước: Nhà nước tiết kiệm được chi phí đầu tư cho giải quyết việc làm trong nước; tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ được coi là một hướng giải quyết việc làm cho người lao động và thu ngoại tệ về cho đất nước. Thông qua XKLĐ hàng năm Nhà nước đã tiết kiệm được một lượng vốn đầu tư tạo chỗ làm mới cho người lao động. Ngân sách Nhà nước thu hàng trăm triệu USD qua phí bảo hiểm xã hội, thuế doanh thu của doanh nghiệp XKLĐ tính trên số tiền phí dịch vụ thu từ người lao động, lệ phí cấp giấy phép hoạt động XKLĐ, lệ phí cấp giấy phép thực hiện hợp đồng, lệ phí cấp hộ chiếu.... Về mục tiêu xã hội Việc xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giải quyết việc làm cho toàn xã hội đặc biệt là lực lượng thanh niên, giải quyết tình trạng ứ đọng lao động, giải quyết về sức ép việc làm cho đất nước, giảm được các tệ nạn xã hội do người lao động không có việc làm gây nên " nhàn cư vi bất thiện". Thông qua XKLĐ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề chuyên môn cao. Lao động Việt Nam cần cù khéo léo, thông minh ham học hỏi, có thể nhanh chóng tiếp thu các kiến thức về khoa học kỹ thuật nhanh chóng thích ứng với công nghệ sản xuất hiện đại. Đa số lao động Việt Nam trước khi đi XKLĐ không có tay nghề chỉ sau 2 năm làm việc đã có thể đạt được tối thiểu bậc thợ trung bình. Sau khi trở về nước phần lớn trong số họ có tay nghề vững vàng, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước khi họ trở về Tiêu cực: Tuy nhiên, bên cạnh tác động tích cực, xuất khẩu lao động cũng đã bộc lộ những ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với bản thân người lao động mà còn đối với gia đình và cộng đồng có người đi xuất khẩu lao động, như: chức năng gia đình bị biến đổi, vai trò giới truyền thống bị xáo trộn, mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo đã dẫn đến nhiều vấn đề xã hội, như: tha hoá về đạo đức, lối sống; mắc các tệ nạn xã hội; quan hệ tình dục ngoài hôn nhân; gia đình lục đục, tan vỡ; thiếu quản lý, giáo dục con cái; nợ nần... SỰ CẦN THIẾT CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM Thực tế cho thấy, nước ta là một quốc gia đông dân khoảng hơn 86 triệu người (năm 2009). Theo số liệu thống kê năm 2009 của Tổng Cục Thống Kê, nước ta có khoảng 58 triệu người trong độ tuổi lao động thực tế, hàng năm chúng ta có thêm 1,5 – 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động, chiếm 2,6% trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động đã được đào tạo chuyên môn kỹ thuật chúng ta có khoảng 8,6 triệu người chiếm khoảng 13,3% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên. Trong đó, 2,6% đã tốt nghiệp sơ cấp, 4,7% trung cấp, 1,6% cao đẳng, 4,2% đại học và 0,2% trên đại học. Bên cạnh đó, tỷ lệ thiếu việc làm là 5,61%, trong đó thành thị là 3,33% và nông thôn là 6,51%. Tỷ lệ thất nghiệp cả nước là 2,9% (thành thị là 4,6%; nông thôn là 2,25%). Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt đối với nền kinh tế. Nếu không giải quyết một cách hài hoà và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với vai trò của nó. Đó cũng là xu hướng chung mà nhiều nước xuất khẩu lao động đã quan tâm phát triển từ nhiều thập kỷ trước đây. Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực cứu cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới, vì đây là lĩnh vực đạt được liền lúc cả hai mục tiêu kinh tế – xã hội: vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển kinh tế xã hội trong nước MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LÝ VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Luật 35/2002/QH10 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ Luật Lao động Luật 72/2006/QH11 của Quốc hội Luật người lao động ở Việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có hiệu lực từ ngày 1/7/2007) Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có hiệu lực từ 29/8/2007, thay thế Nghị định 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003) Thông tư liên tịch 09/2006/TTLT/BLĐTBXH-BCA-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân tối cao và Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động ở nước ngoài Quyết định số 20/2007/QĐ-LĐTBXH ngày 2/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Lao động - TBXH Ban hành chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. (có hiệu lực từ ngày 11/9/2007). Một số văn bản pháp lý khác. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ 1980 ĐẾN NAY Chúng ta có thể phân chia xuất khẩu lao động thành hai chặng đường cơ bản sau: + Giai đoạn từ 1980 đến 1990 + Giai đoạn từ 1991 đến nay (2010) Sở dĩ phân chia như trên vì xuất khẩu lao động trong hai giai đoạn trên có những đặc trưng cơ bản rất khác biệt. Giai đoạn từ 1980-1990: là giai đoạn xuất khẩu lao động được sự bao cấp hoàn toàn của nhà nước, do chính nhà nước tiến hành và hầu như không chịu sự tác động của thị trường. Giai đoạn 1991- nay (2010): là giai đoạn xuất khẩu lao động chịu sự tác động của thị trường, chủ thể tham gia chủ yếu trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài không phải nhà nước mà là các doanh nghiệp xuất khẩ
Luận văn liên quan