Đề tài Tìm hiểu 3 vụ việc có tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở

Con người sinh sống và tồn tại trên thế giới này cần phải có những lợi ích vật chất để đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở của mình. Để duy trì và phát triển cuộc sống, con người ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất cho mình và cho xã hội. Tuy nhiên, là một quy luật tất yếu của cuộc sống, con người sinh ra rồi sẽ phải chết đi. Từ đó phát sinh nhu cầu dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Nó đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và được hiểu là việc thừa kế tài sản. Khi Nhà nước ra đời, mỗi Nhà nước đều sử dụng một công cụ hữu ích để quản lý xã hội là pháp luật. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xã hội, thừa kế đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa các chủ thể bình đằng về địa vị pháp lý. Để làm rõ hơn về thừa kế, chúng em xin chọn đề số 09 Tìm hiểu 03 vụ việc có tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở để làm rõ hơn một vài vấn đề quan trọng có liên quan đến vấn đề này Do điều kiện thời gian cũng như trình độ am hiểu về vấn đề còn hạn chế, nên bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong nhận được những ý kiến phê bình, đánh giá của các thầy cô giáo cũng như các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn và đem lại những kinh nghiệm quý báu cho chúng em trong những lần viết sau. Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn đã giảng giải trong các tiết học và trong các giờ tư vấn để giúp chúng em hoàn thành tốt bài tập này.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu 3 vụ việc có tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Bài Đề số 9 : Tìm hiểu 03 vụ việc có tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở Yêu cầu : Có địa chỉ rõ ràng Mô tả nội dung vụ việc Những tranh chấp đó đã được Tòa án nào giải quyết hay chưa được Tòa án giải quyết? Ý kiến của nhóm về cách giải quyết của Tòa án đối với từng vụ việc Nếu vụ việc chưa được Tòa án giải quyết thì nhóm hãy nêu ra cách giải quyết vụ việc của mình Lời nói đầu Con người sinh sống và tồn tại trên thế giới này cần phải có những lợi ích vật chất để đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở của mình. Để duy trì và phát triển cuộc sống, con người ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất cho mình và cho xã hội. Tuy nhiên, là một quy luật tất yếu của cuộc sống, con người sinh ra rồi sẽ phải chết đi. Từ đó phát sinh nhu cầu dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Nó đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và được hiểu là việc thừa kế tài sản. Khi Nhà nước ra đời, mỗi Nhà nước đều sử dụng một công cụ hữu ích để quản lý xã hội là pháp luật. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xã hội, thừa kế đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa các chủ thể bình đằng về địa vị pháp lý. Để làm rõ hơn về thừa kế, chúng em xin chọn đề số 09 Tìm hiểu 03 vụ việc có tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở để làm rõ hơn một vài vấn đề quan trọng có liên quan đến vấn đề này Do điều kiện thời gian cũng như trình độ am hiểu về vấn đề còn hạn chế, nên bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong nhận được những ý kiến phê bình, đánh giá của các thầy cô giáo cũng như các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn và đem lại những kinh nghiệm quý báu cho chúng em trong những lần viết sau. Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn đã giảng giải trong các tiết học và trong các giờ tư vấn để giúp chúng em hoàn thành tốt bài tập này. B. Nội dung I. Cơ sở lý luận Thừa kế tài sản là một quan hệ xã hội có từ lâu đời và đã được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh, từ đó phát sinh quyền thừa kế. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của hộ và được thể hiện tring di chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người chết đó hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự về thừa kế là quan hệ về thừa kế được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh. Thừa kế là một chế định quan trọng trong luật dân sự Việt Nam. Chế định về thừa kế có 57 Điều (từ Điều 631 - Điều 681) được quy định tại chương XXII, XXIII, XXIV và XXV. Theo Điều 631 Bộ luật Dân sự 2005 về quyền thừa kế của các nhân : Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Quyền sử dụng là một trong ba quyền của quyền sở hữu. Theo Điều 192, BLDS 2005 quy định: Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản Xã hội ngày càng phát triển, con nguời ngày càng sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho mình và cho xã hội. Từ đó dẫn đến con người ngày càng chú ý hơn đến vấn đề thừa kế tài sản. Và việc tranh chấp thừa kế là điều không thể tránh khỏi. Trong đó tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất là khá phổ biến. Sau đây nhóm chúng em xin được làm rõ vấn đề về tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất thông qua 3 vụ việc sau. II. Các vụ án trên thực tế 1. Vụ việc thứ nhất Tóm tắt nội dung vụ việc Ngày 20 tháng 2 năm 2006, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lí số 24/2006 - PTDS ngày 23.1.2006 do có kháng cáo của các bên đương sự đối với các bản án sơ thẩm số 51 ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh. Bản án đã xét xử vụ tranh chấp thừa kế giữa: Nguyên đơn : Anh Nguyễn Đức Đạt, sinh năm 1957. Cư trú tại Xóm Hậu, xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội. Bị đơn : Anh Nguyễn Đức Điệp, sinh năm 1940. Cư trú tại số nhà 15, ngõ 64, phố Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Hà Nội. Anh Nguyễn Đức Tiến, sinh năm 1953. Cư trú tại Xóm Hậu, xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội. Nội dung vụ việc như sau: Nguyên đơn : Anh Nguyễn Đức Đạt trong đơn khởi kiện ngày 20.4.2005 và lời khai trình bày Ông Nguyễn Đức Đán (chết năm 2001) và vợ là bà Hoàng Thị Thạo (chết năm 1973) sinh được 8 người con gồm: Anh Nguyễn Đức Điệp, Nguyễn Đức Cương, Nguyễn Đức Tiến, Nguyễn Đức Đỉnh, Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Đức Tùng (liệt sĩ chưa có vợ con), anh Nguyễn Đức Sơn (chết chưa có vợ con) và chị Nguyễn Thị Mùi. Khi ông bà còn sống cùng gia đình ở trên thổ đất diện tích 1.500m2 tại xóm Hậu, xã Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội. Các con trưởng thành đều được ông bà xin đất làm nhà cho ra ở riêng. Khi anh Tiến lấy vợ, ông bà cho anh Tiến nhà trên diện tích đất khoảng 500m2, còn ông bà vẫn ở trên nhà cũ với diện tích đất khoảng 600m2, còn lại 300m2 ông Đán nói rằng để chia cho 4 người là: anh Đạt, chị Mùi, anh Cương, anh Đỉnh. Nhưng đến năm 2002 anh Tiến làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã kê khai cả 300m2 đất này và đã được chấp nhận cấp sổ đỏ. Bởi vậy anh Đạt đề nghị Tòa án xét xử buộc anh Tiến và anh Điệp phải trả lại phần đất 300m2 này để chia cho 4 người. Phía bị đơn: Anh Nguyễn Đức Hiệp và anh Nguyễn Đức Tiến nhất trí lời khai của anh Đạt về quan hệ huyết thống, nhưng không nhất trí yêu cầu của nguyên đơn về chia thừa kế theo luật, hoặc theo di chúc miệng khi còn sống. Ngày 28.8.1999 ông Đán đã có văn bản giao toàn bộ tài sản nhà, đất của ông bà cho anh Điệp là con trưởng được thừa hưởng để làm nơi thờ cúng tổ tiên theo tập quán của dòng họ Nguyễn Đức. Với lí do này ngày 30.11.2005 anh Điệp có đơn phản tố yêu cầu được chấp nhận di chúc của ông Đán để lại. Về nguồn gốc đất, tài sản như sau: Ngôi nhà cổ của ông Đán, bà Thạo trên diện tích 902m2 là do các cụ để lại, năm 1992 nhà bị cháy, vợ chồng anh Điệp bỏ tiền cùng ông Đán làm lại nhà, để mở cổng đi ông Đán và anh Tiến có đổi lại một phần diện tích đất để đẹp nhà. Trên bản đồ năm 1994 diện tích đất mang tên ông Đán là 840m2, diện tích đất mang tên anh Tiến là 620m2. Ngày 20.8.1999 ông Đán đã lập văn bản để cho anh Điệp được thừa hưởng nhà đất này để làm nơi thờ cúng tổ tiên. Năm 2002, anh Tiến được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 28.4.2002, gia đình họp thống nhất giao cho anh Điệp quyền sử dụng nhà đất, đến năm 2004 anh Điệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quyết định của Toàn án sơ thẩm Từ nội dung trên, án sơ thẩm đã quyết định Áp dụng các Điều 649, 651, 652 khoản 2 Điều 653, Điều 654, 655, 659 và khoản 1 Điều 670 BLDS. Áp dụng khoản 1 Điều 136 luật Đất đai. Áp dụng nghị định 70CP về án phí, lệ phí Tòa án. Quyết định Không chấp nhận yêu cầu của anh Đạt về việc thực hiện di chúc miệng của ông Nguyễn Đức Đán. Chấp nhận một phần yêu cầu của anh Điệp về việc thực hiện di chúc của ông Nguyễn Đức Đán để lại ngày 20.8.1999. Xác định bà Hoàng Thị Thạo chết năm 1973 đã hết thời điểm mở thừa kế. Di sản thừa kế được chia theo di chúc của ông Đán để lại ngày 20.8.1999. Xác định di sản của vợ chồng ông Đán và bà Thạo để lại hiện do vợ chồng anh Điệp và vợ chồng anh Tiến quản lí sử dụng trị giá 2.439.800.000 đồng. Xác định di sản (tài sản riêng) của ông Đán và bà Thạo để lại hiện tại do vợ chồng anh Điệp quản lí sử dụng gồm: Một nhà 5 gian trị giá 300 triệu đồng, cây lâm lộc trên đất: 1.780.000 đồng; 61m2 đất trị giá 152.500.000 đồng tổng cộng là 454.280.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ con anh Điệp không yêu cầu thanh toán công sức làm nhà 5 gian, chuyển nhượng 61m2 đất ở. Di sản bà Thạo hết thời hiệu khởi kiện nên giao cho anh Điệp, anh Tiến tiếp tục quản lí, sử dụng không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cầm cố. Di sản của ông Đán để mở thừa kế theo di chúc và anh Điệp được hưởng toàn bộ di sản ông Đán để lại. Giao hiện vật cho các bên như sau Giao cho anh Điệp sử dụng 840m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu 5 gian nhà, 1 cây mít và các cây lâm lộc tổng cộng 2.402.080.000 đồng. So với kỷ phần được hưởng còn thừa 321.266.000 đồng là giá trị 128.5m2 đất là di sản thừa kế đã hết thời hiệu của bà Thạo. Giao cho anh Tiến tiếp tục quản lý 123m2 đất trong tổng số 620m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trị giá 429.000.000 đồng là phần di sản hết thời hiệu của bà Thạo. Gia đình anh Tiến tiếp tục sở hữu tài sản riêng trên đất gồm nhà, bếp, các công trình phụ, cây lâm lộc và sử dựng 497m2 đất. Bác tất cả các yêu cầu khác của các đương sự. Án phí dân sự sơ thẩm mà anh Đạt phải chịu là 4.400.000 đồng; anh Điệp phải chịu 7.000.000 đồng. Nhận xét của nhóm Quyết định của Tòa án sơ thẩm là chính xác. Để giải quyết vụ việc này, Tòa án đã áp dụng các quy định của pháp luật dân sự và cả luật đất đai. Trong vụ việc này, đầu tiên Tòa án áp dụng quy định tại Điều 649, 651, 652, khoản 2 Điều 653 và Điều 654, 655, 659 để xác định di chúc của ông Đán lập vào ngày 20.8.1999 là hợp pháp và nó phát sinh hiệu lực ngay sau thời điểm ông Đán chết. Di chúc miệng của ông Đán không phát huy hiệu lực vì nó được lập trước cả thời điểm lập di chúc bằng văn bản vào tháng 8 năm 1999, trong khi ông Đán tới năm 2001 mới chết( di chúc miệng được lập từ khi bà Thạo còn sống, tức là trước năm 1973). Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2005 về di chúc miệng: " Sau ba tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ." Như vậy, di chúc miệng của ông Đán trước đó mặc nhiên bị hủy bỏ, Tòa án bãi yêu cầu của anh Đạt về việc chia di sản của ông Đán theo di chúc miệng là đúng pháp luật. Theo khoản 1 Điều 670 BLDS 2005 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng: "Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lí để thờ cúng." Như vậy, ông Đán để lại cho anh Điệp 840m2 đất dùng vào việc thờ cúng tổ tiên. Theo quy định này của pháp luật, Tòa án đã quyết định phần đất này giao cho anh Điệp quản lí theo di chúc của ông Đán là đúng. Theo khoản 1 Điều 633 BLDS: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. và Điều 645 BLDS về thời hiệu khởi kiện về thừa kế: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, về phần di sản của bà Thạo đã hết thời hiệu để khởi kiện về thừa kế, cho nên di sản đó giao cho anh Điệp, anh Tiến tiếp tục quản lí, sử dụng không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cầm cố. Quyết định của Tòa án đã bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự, giải quyết được tranh chấp về đất ở giữa anh Đạt với anh Điệp và anh Tiến. 2. Vụ việc thứ hai Tóm tắt nội dung vụ việc Nguyên đơn: Ông Lâm Ngọc Lắm, sinh năm 1943; trú tại: Hoa Kỳ (ông Lắm uỷ quyền cho ông Lâm Ngọc Hiệu, sinh năm 1928; trú tại ấp Long Hoà 2, xã Long Phú, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ nay là tỉnh Hậu Giang Bị đơn: Bà Lâm Thị Mịnh, sinh năm 1927; trú tại: ấp 2, thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ (bà Mịnh uỷ quyền cho con là anh Nguyễn Phước Hành, sinh năm 1961; trú tại: ấp 2, thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ nay là ấp 2 đường Nguyễn Trung Trực, thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang). Nhận thấy Cụ Lâm Ngọc Hậu (chết năm 1975) có vợ là cụ Hồ Thị Hứng (chết năm 1990), đều không để lại di chúc. Hai cụ có 5 con là bà Lâm Thị Mịnh, bà Lâm Thị Kỉnh, ông Lâm Ngọc Hiệu, ông Lâm Ngọc Lắm, bà Lâm Ngọc Ảnh. Tài sản của cụ Hậu và cụ Hứng là 1 căn nhà không số trên 76 m2 đất ở tại ấp 2, thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ (cũ). Từ năm 1985 nhà, đất do anh Nguyễn Phước Hành (con trai bà Mịnh) quản lý và sử dụng. Trong quá trình quản lý và sử dụng anh Hành có sửa chữa nhỏ. Bà Mịnh, ông Lắm, ông Hiệu, bà Ảnh và bà Kỉnh đều thống nhất chia thừa kế theo pháp luật căn nhà không số trên 76 m2 đất ở tại ấp 2 và nhất trí thanh toán tiền sửa chữa nhà cho anh Hành. Tuy nhiên ngoài phần nhà đất trên bà Mịnh còn khai: Cụ Hậu và cụ Hứng còn có một căn nhà do bà Kình quản lý và số ruộng đất do bà Ảnh và ông Hiệu quản lý.do đó bà yêu cầu phải đưa só tài sản này vào di sản thừa kế của hai cụ để chia. Theo ông Hiệu, bà Kỉnh, bà Ảnh, ông Lắm khai: Căn nhà mà bà Kỉnh đang quản lý là do bà Kỉnh mua và đã dỡ nhà cũ xây nhà mới như hiện nay; đất ruộng là của ông Hiệu, bà Ảnh mua sau giải phóng và ông Hiệu và bà Ảnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên không phải là di sản của cụ Hậu, cụ Hứng. Giải quyết của tòa án Tại bản án dân sự sơ thẩm số 17/DSST 26-7-1994, Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của ông Lâm Ngọc Hiệu; Giao căn nhà nói trên cho ông Lâm Ngọc Hệu quản lý theo yêu cầu của bà Kỉnh, bà Ảnh, ông Lắm thuộc đồng sở hữu 4 người. Đồng thời, Ông Lâm Ngọc Hiệu diện đại cho 4 người đồng sở hữu (bà Kỉnh, bà Ảnh, ông Lắm kể cả ông Hiệu) để trả tiền tu sửa 4.059.369 đồng cho anh Nguyễn Phước Hành lúc giao trả nhà và giao cho bà Lâm Thị Mịnh 9.683.251 đồng bằng 1/5 phần thừa kế; Bác yêu cầu phản tố của bà Lâm Thị Mịnh. Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 23-8-1994 bà Mịnh kháng cáo đòi quyền lợi của mình từ phần đất của ông Hiệu và bà Kình. Ngày 14-01-1995 anh Hành kháng cáo bổ sung cho rằng phần định giá của Phòng nông nghiệp huyện ngày 06-10-1993 và phần định giá của Phòng công nghiệp huyện Long Mỹ có sự chênh lệch, như vậy, là việc định giá chưa hợp lý đề nghị xem xét lại. Tại bản án phúc thẩm số 07/DSPT ngày 18-01-1995, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 17/DSST ngày 26-7-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ và giao hồ sơ vụ kiện về Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ để điều tra xét xử lại. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 19/DSST ngày 31-8-1996, Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) đã quyết định: Bà Mịnh được hưởng căn nhà tại ấp 2, thị trấn Long Mỹ; Anh Hành đại diện cho bà Mịnh giao lại cho Lâm Ngọc Hiệu, Lâm Ngọc Lắm, Lâm Thị Kỉnh, Lâm Thị Ảnh mỗi người 9.736.320 đồng; Bác yêu cầu phản tố đòi chia thừa kế của bà Mịnh đối với căn nhà và đất của ông Hiệu và bà Kỉnh, bà Ảnh đang ở và canh tác. Ngày 06-9-1996 ông Hiệu, bà Ảnh kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm vì cho rằng nếu chia như vậy sẽ gây thiệt hại đến quyền lợi cử ông bà. Ngày 12-9-1996 bà Mịnh kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 107/DSPT ngày 27-5-1997, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Công nhận di sản của ông Lâm Ngọc Hậu và bà Hồ Thị Hứng là căn nhà tại ấp 2, thị trấn Long Mỹ. Bà Lâm Thị Mịnh được quyền sở hữu căn nhà nói trên và có trách nhiệm hoàn lại cho ông Lâm Ngọc Hiệu, ông Lâm Ngọc Lắm, bà Lâm Thị Kỉnh, bà Lâm Thị Ảnh mỗi người 9.736.320 đồng. Tách yêu cầu phản tố của bà Mịnh về việc yêu cầu chia thừa kế nhà đất mà ông Hiệu, bà Ảnh, bà Kỉnh đang quản lý sử dụng để giải quyết thành vụ án khác nếu có yêu cầu. Ngày 04-9-1997 ông Lâm Ngọc Lắm khiếu nại. Tiếp đó, ngày 11-8-1997 bà Lâm Thị Ảnh, ông Lâm Ngọc Hiệu khiếu nại. Tại Công văn số 84 ngày 30-6-1997, Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm. Tại Quyết định kháng nghị số 05/KN-DS ngày 14-01-1998, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm. Tại Kết luận số 134/KL-DS ngày 30-6-1998, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận xét: việc kháng nghị là không cần thiết.và đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm. Tại Quyết định số 24/UBTP-DS ngày 27-8-1998 Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã quyết định tậm đình chỉ giải quyết vụ việc. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 107/DSPT ngày 27-5-1997 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 19/DSST ngày 31-8-1996 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Nhận xét của nhóm Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Mịnh có yêu cầu phản tố, lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào khoản 1, Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để buộc bà Mịnh phải nộp tiền tạm ứng án phí rồi mới thụ lý giải quyết yêu cầu phản tố của bà Mịnh mới đúng. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm không yêu cầu bà Mịnh nộp tiền tạm ứng án phí và đã thụ lý giải quyết yêu cầu của bà Mịnh là vi phạm thủ tục tố tụng. Về giá trị nhà đất: Tại phiên toà sơ thẩm ngày 31-8-1996 toàn bộ các đương sự đều thoả thuận giá trị căn nhà là 54.000.000 đồng nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn áp dụng giá do hội đồng định giá năm 1994 để giải quyết vụ án là không phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm ông Lâm Ngọc Hiệu, bà Lâm Thị Ảnh kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm vì giá Hội đồng định giá đã định có sự chênh lệch so với giá thị trường. Tại phiên toà phúc thẩm các đương sự vẫn tiếp tục cho rằng giá do Toà án định giá năm 1994 là không phù hợp với thực tế và ông Hiệu chấp nhận nhận nhà đất và thanh toán tiền cho các thừa kế khác với giá 60 cây vàng (tương đương 300.000.000 đồng) nhưng Toà án cấp phúc thẩm vẫn áp dụng giá do Hội đồng định giá từ năm 1994 để giải quyết là không phù hợp. Hơn nữa, cho đến nay giá nhà đất đã có biến động rất lớn. Do đó, cần định giá lại thì mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự, và phù hợp với thực tế. Mặt khác, tại thời điểm Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án thì ông Lâm Ngọc Lắm đang định cư ở Mỹ, nhưng đến nay ông Lắm có thay đổi nơi định cư hay không? Do đó, cần phải xác định rõ thêm về nơi định cư của ông Lắm thì mới có cơ sở giải quyết vụ án theo quy định tại nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. Hơn nữa, do thời gian tạm đình chỉ vụ án đã lâu (từ năm 1998) cho đến nay chưa xác định được có việc thay đổi về việc tham gia tố tụng của các đương sự và yêu cầu của các đương sự hay không? Cho nên khi giải quyết lại vụ án cần xác minh thêm các vấn đề này để giải quyết vụ án đúng pháp luật. Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án bà Mịnh khai ngoài căn nhà đang tranh chấp thì di sản của cụ Hậu, cụ Hứng còn có nhà đất do bà Kỉnh, ông Hiệu, bà Ảnh quản lý, sử dụng và yêu cầu đưa vào di sản thừa kế của cụ Hậu, cụ Hứng để chia. Toà án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà Mịnh. Lẽ ra, nếu có đủ căn cứ để xác định nhà đất ông Hiệu, bà Kỉnh, bà Ảnh không phải là di sản của hai cụ thì phải bác yêu cầu của bà Mịnh (như án sơ thẩm) mới đúng. Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ lại tách yêu cầu của bà Mịnh để giải quyết thành vụ án khác là chưa giải quyết hết các yêu cầu của đương sự. Do đó, nhóm đồng ý với những quyết định của viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm bị hủy là do: Toà án cấp sơ thẩm không buộc bị đơn nộp tiền tạm ứng án phí khi bị đơn có yêu cầu phản tố là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Cần tiến hành định giá lại di sản thừa kế; Cần xác định lại nơi cư trú hiện thời của nguyên đơn, việc tham gia tố tụng của các đương sự và yêu cầu của họ. 3, Vụ việc thứ ba Tóm tắt nội dung vụ việc Ng
Luận văn liên quan