Đề tài Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005

Pháp luật về hợp đồng thương mại ở nước ta có quá trình phát triển qua từng giai đoạn, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó một trong những mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới vào tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ra đời điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng thương mại. Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng pháp triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Mặt trái của nó là các vi phạm hợp đồng cũng diễn ra nhiều và ngày càng phổ biến hơn. Để giúp đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham gia hợp đồng tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận nhằm đảm bảo hợp tác bình đẳng, pháp luật về chế tài trong thương mại ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Với việc ban hành Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005, hệ thống pháp luật về chế tài trong thương mại tương đối đầy đủ, thống nhất nhưng vẫn còn những hạn chế gây ảnh hưởng tới việc áp dụng chế tài trong thương mại. Với mong muốn tìm hiểu vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm hai chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản về chế tài trong thương mại. Chương 2: Các chế tài trong thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 và một số kiến nghị. Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những sơ xuất và thiếu sót trong quá trình thực hiện. Kính mong nhận được những đánh giá và nhận xét của các thầy cô để giúp em hoàn thiện đề tài được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

doc48 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6087 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Pháp luật về hợp đồng thương mại ở nước ta có quá trình phát triển qua từng giai đoạn, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó một trong những mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới vào tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lí của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ra đời điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng thương mại. Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng pháp triển mạnh mẽ. Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Mặt trái của nó là các vi phạm hợp đồng cũng diễn ra nhiều và ngày càng phổ biến hơn. Để giúp đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham gia hợp đồng tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận nhằm đảm bảo hợp tác bình đẳng, pháp luật về chế tài trong thương mại ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Với việc ban hành Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005, hệ thống pháp luật về chế tài trong thương mại tương đối đầy đủ, thống nhất nhưng vẫn còn những hạn chế gây ảnh hưởng tới việc áp dụng chế tài trong thương mại. Với mong muốn tìm hiểu vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm hai chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản về chế tài trong thương mại. Chương 2: Các chế tài trong thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 và một số kiến nghị. Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những sơ xuất và thiếu sót trong quá trình thực hiện. Kính mong nhận được những đánh giá và nhận xét của các thầy cô để giúp em hoàn thiện đề tài được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài trong thương mại 1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại * Theo nghĩa rộng Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại được hiểu là hình thức chế tài được cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Khi có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại thì cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm sẽ có quyền áp dụng trách nhiệm pháp lí đối với các chủ thể vi phạm. Phân tích các đặc điểm của chế tài theo cách hiểu này thì phạm vi của nó là rất rộng. Các đặc trưng cơ bản của chế tài theo cách hiểu này là: + Về phạm vi áp dụng: Theo tinh thần chung của Luật thương mại 2005: mọi hành vi vi phạm pháp luật thương mại đều bị phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh. Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại đều thuộc phạm vi áp dụng chế tài. Các hành vi vi phạm pháp luật thương mại không chỉ bao gồm những hành vi vi phạm chế độ quản lí nhà nước trong lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự quản lí thương mại của nhà nước, mà còn gồm các hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình thương nhân kí kết và thực hiện hợp đồng. + Chủ thể có quyền ra quyết định áp dụng chế tài: Theo từng hành vi vi phạm mà chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại có thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví dụ Cơ quan quản lí thị trường, Công an kinh tế, Tòa án…) hay chính bên bị vi phạm cam kết trong hợp đồng giữa các chủ thể. + Về đối tượng bị áp dụng chế tài trong thương mại: Đối tượng bị áp dụng chế tài trong thương mại chủ yếu là thương nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại. Đó là các chủ thể thường xuyên được thực hiện các hành vi thương mại, là đối tượng áp dụng của luật thương mại nên phải chịu chế tài trong thương mại khi có các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, chế tài cũng áp dụng đối với một số chủ thể không phải là thương nhân, ví dụ như chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh trái phép. + Về hình thức chế tài: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại mà có thể áp dụng các hình thức chế tài là các chế tài hành chính, chế tài hình sự và các chế tài mang tính chất dân sự (hay chế tài hợp đồng). + Về mục đích áp dụng chế tài trong thương mại: Căn cứ vào hình thức chế tài được áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại, việc áp dụng các chế tài đó nhằm đảm bảo các mục đích sau: (a) Đối với các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự quản lí hoạt động thương mại của nhà nước (ví dụ buôn lậu, trốn thuế…) thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội và của chính người tiêu dùng; (b) Đối với các hành vi vi phạm chế độ hợp đồng, chế tài nhằm bảo đảm kỉ luật hơp đồng, ngăn ngừa mọi vi phạm hợp đồng và trừng phạt bên bị vi phạm. Tóm lại, theo cách hiểu này chỉ cần chủ thể tham gia pháp luật thương mại có hành vi vi phạm pháp luật thương mại là đều có căn cứ áp dụng chế tài. Như vậy rất dễ dàng để truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức tham gia pháp luật thương mại. Nhưng nhược điểm của nó là khi áp dụng chế tài, việc phân tích, tìm hiểu hành vi vi phạm thì rất khó tìm quy phạm điều chỉnh và áp dụng các hình thức chế tài cụ thể vì pháp luật quy định rất rộng, rải rác trên nhiều văn bản khác nhau. Để tìm hiểu kĩ hơn về chế tài trong thương mại theo cách hiểu này cần một công trình rất công phu, cần sự tham gia của nhiều người, và nghiên cứu trên nhiều phương diện .Vì thế trong phạm vi khóa luận này chỉ phân tích nó trên phạm vi hẹp hơn, đó là phân tích các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm trong quan hệ hợp đồng. * Theo nghĩa hẹp Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu các hình thức trách nhiệm – chế tài. Đây là khái niệm chế tài hiểu theo nghĩa hẹp, chế tài chỉ bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên bị vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng chế tài. Đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại. Nếu một bên có hành vi vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lí (bất lợi) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra. Luật thương mại 2005 quy định các loại chế tài tại Điều 292 theo đó có các chế tài sau: (a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng; (g) Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật. Về bản chất chế tài trong thương mại chính là các chế tài hợp đồng, được quy định trong các quy phạm pháp luật thương mại bao gồm những hình thức xử lí và hậu quả pháp lí áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm trong quá trình kí kết, thực hiện hợp đồng trong thương mại. Để phù hợp với phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận, em tập trung nghiên cứu các chế tài trong thương mại theo nghĩa hẹp, các chế tài theo quy định tại Điều 292 Luật thương mại 2005, làm rõ quy định pháp luật về nội dung của từng loại chế tài, điều kiện, thủ tục áp dụng để thấy được tầm quan trọng của chế tài trong quan hệ thương mại. 1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại Theo Điều 292 Luật thương mại 2005, chế tài trong thương mại được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại. Với cách hiểu này, chế tài trong thương mại có những đặc điểm sau: + Chế tài trong thương mại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng trong thương mại Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Luật thương mại quy định 6 hình thức chế tài áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng cụ thể là: (a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng. + Chế tài trong thương mại là những chế tài mang tính chất tài sản Khi thương nhân thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, có thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính vật chất. Do hợp đồng trong thương mại được các bên kí kết chủ yếu là những hợp đồng mang tính chất đền bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính tài sản là tất yếu, trừ khi chính bản thân người bị vi phạm trong cùng quan hệ hợp đồng không muốn áp dụng chế tài hợp đồng đối với bên vi phạm. Hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản thể hiện ở việc bên có hành vi vi phạm phải nộp một khoản tiền phạt hợp đồng, nộp tiền bồi thường hợp đồng hay những chi phí cần thiết để thực hiện đúng hợp đồng… Việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng cũng có thể làm phát sinh nghĩa vụ tài sản đối với các bên, đặc biệt là bên có hành vi vi phạm. + Chủ thể lựa chọn và quyết định các hình thức chế tài chính là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng Những điều khoản các bên đã cam kết trong hợp đồng là điều khoản bắt buộc phải được tuân thủ thực hiện, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo các cam kết được thỏa thuận trong hợp đồng thì chủ thể đó bị coi là có hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này bên bị vi phạm có thể áp dụng một hoặc một số chế tài theo cam kết trong hợp đồng hay theo quy định của pháp luật. Khi bên bị vi phạm áp dụng các chế tài trong thương mại, nhưng bên vi phạm không thừa nhận hành vi vi phạm hay không tuân thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị vi phạm có thể làm đơn khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khuôn khổ quy định pháp luật, bên bị vi phạm được toàn quyền quyết định việc yêu cầu bên vi phạm thực hiện một phần hay toàn bộ trách nhiệm tài sản đối với mình. Ví dụ trong hợp đồng thỏa thuận sẽ áp dụng đồng thời hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, nhưng bên bị vi phạm có thể chỉ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại mà không áp dụng phạt vi phạm. Tòa án và Trọng tài được bên bị vi phạm yêu cầu giải quyết tranh chấp, phải tôn trong quyền tự định đoạt của bị đơn. + Mục đích áp dụng chế tài trong thương mại Việc quy định các chế tài trong thương mại nhằm bảo vệ quyền lợi của chính các bên trong quan hệ hợp đồng. Đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham gia hợp đồng tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận nhằm đảm bảo hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Luật thương mại 2005 quy định nhiều loại chế tài khác nhau và nhằm đạt được các hiệu quả khác nhau nhưng không ngoài mục đích nhằm tạo ra môi trường pháp lí công bằng, thuận lợi để các thương nhân tham gia hoạt động kinh doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát triển xã hội. 1.2. Các loại chế tài trong thương mại Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng trong thương mại dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu các hình thức chế tài, các chế tài khi đó gọi là chế tài hợp đồng. Nói cách khác, đó là chế tài được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên có quyền bị vi phạm được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng do pháp luật quy định. Căn cứ pháp lí để áp dụng chế tài hợp đồng đó là Luật thương mại 2005 (Từ Điều 292 – 316 Luật thương mại 2005). Khi các chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại, người bị vi phạm hoặc khi có yêu cầu của người bị vi phạm cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các chế tài đối với họ. Theo quy định của pháp luật hiện hành các chế tài trong thương mại bao gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm [5, tr.53]. Khoản 1 Điều 297 Luật thương mại 2005 quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Mục đích của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng đã kí kết. Trong nhiều trường hợp, các loại chế tài khác như bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm không thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng đã kí kết của các bên. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác. Việc áp dụng các chế tài khác chỉ được thực hiện sau thời hạn cho phép thực hiện đúng hợp đồng. Phạt vi phạm hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm hợp đồng một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận theo quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật [5, tr.55]. Điều 300 Luật thương mại 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”. Mặc dù cũng là chế tài tiền tệ giống như chế tài bồi thường thiệt hại nhưng phạt vi phạm có chức năng hoàn toàn khác. Nếu như chế tài bồi thường thiệt hại nhằm mục đích chủ yếu là bù đắp thiệt hại vật chất cho người bị thiệt hại thì phạt vi phạm chủ yếu nhằm răn đe, trừng phạt. Căn cứ duy nhất để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là do hành vi không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Yếu tố lỗi ở đây chỉ có ý nghĩa suy đoán. Tức là, bên vi phạm có lỗi do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Bên vi phạm chỉ cần chứng minh có sự vi phạm mà không cần phải chứng minh yếu tố lỗi. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đều không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên, đối với cùng một vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại, nếu như các bên không có thỏa thuận khác. Nói cách khác, việc áp dụng đồng thời hai loại chế tài này đối với một vi phạm chỉ xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận trước trong hợp đồng. Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài nhằm khôi phục bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng trong kinh doanh [6, tr.65]. Khoản 1 Điều 302 Luật thương mại 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ xảy ra khi có đầy đủ 4 yếu tố sau: (a) có hành vi vi phạm hợp đồng; (b) có thiệt hại thực tế; (c) hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại; (d) có lỗi của bên vi phạm. Do chức năng chủ yếu của chế tài này là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Thiệt hại vật chất ở đây là giá trị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, việc tính chính xác giá trị thiệt hại vật chất là việc rất khó có thể đạt được trong mọi trường hợp do đặc điểm cụ thể của từng loại hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên, các khoản thiệt hại đòi bồi thường không thể cao hơn giá trị tổn thất thực tế và khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong kinh doanh là hình thức chế tài, theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh [6, tr.66]. Điều 308 luật thương mại 2005 quy định:”Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; 2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bên vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất đã xảy ra do hành vi vi phạm của bên kia. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh [6, tr.66]. Điều 310 Luật thương mại 2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; 2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Huỷ bỏ hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết [6, tr.67]. Điều 312 Luật thương mại quy định: “1. Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. 2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. 3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. 4. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.” Khi một hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giả quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại các lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Ngoài ra còn có các chế tài khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. 1.3. Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại là các điều kiện cần và đủ để bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng các biện
Luận văn liên quan