Đề tài Tìm hiểu Các nội dung chưa hợp lý trong Luật Kinh doanh bảo hiểm

Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Trong thời gian qua, Luật KDBH đã điều chỉnh tương đối toàn diện các vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bao gồm các nội dung chủ yếu: địa vị pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH); hợp đồng bảo hiểm; đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bảo hiểm v.v. Với phạm vi điều chỉnh rộng, Luật KDBH đã góp phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam và là công cụ quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc thù này. Tuy nhiên, Luật KDBH cũng đã bộc lộ những bất cập làm giảm sút hiệu quả điều chỉnh pháp luật.

doc6 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu Các nội dung chưa hợp lý trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các nội dung chưa hợp lý trong Luật Kinh doanh bảo hiểm Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Trong thời gian qua, Luật KDBH đã điều chỉnh tương đối toàn diện các vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bao gồm các nội dung chủ yếu: địa vị pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH); hợp đồng bảo hiểm; đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bảo hiểm v.v.. Với phạm vi điều chỉnh rộng, Luật KDBH đã góp phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam và là công cụ quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc thù này. Tuy nhiên, Luật KDBH cũng đã bộc lộ những bất cập làm giảm sút hiệu quả điều chỉnh pháp luật. 1. Bất hợp lý trong cấu trúc văn bản luật  Cấu trúc văn bản Luật KDBH hiện hành có nhiều điểm không hợp lý, cần phải được cơ cấu lại nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh pháp luật với tư cách là văn bản luật chuyên ngành. Thứ nhất, Luật KDBH hiện hành quy định về hợp đồng bảo hiểm tại Chương II, còn những vấn đề pháp lý cơ bản điều chỉnh DNBH được quy định tại Chương III. Thiết nghĩ, việc sắp xếp như vậy là không phù hợp, vì: a) Luật KDBH cần phải coi trọng những nội dung điều chỉnh về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, mà chủ thể kinh doanh chủ yếu là DNBH, nên sau Chương I quy định về những vấn đề chung, thì Chương II phải nên quy định về DNBH và một số chủ thể kinh doanh khác; b) cách giải thích hợp logic là phải có doanh nghiệp thì mới có sản phẩm bảo hiểm, nên sau chế định về DNBH mới nên quy định về sản phẩm bảo hiểm (được thể hiện qua hợp đồng bảo hiểm). Thứ hai, nên xác định nội dung điều chỉnh của Chương Hợp đồng bảo hiểm là điều chỉnh về các loại hình bảo hiểm (các sản phẩm bảo hiểm) để không trùng lắp với những quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) về hợp đồng bảo hiểm và phù hợp với tinh thần của Luật KDBH là điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm với đối tượng của hoạt động kinh doanh này là các sản phẩm bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Do đó, chương về Hợp đồng bảo hiểm nên đặt tên thành Các sản phẩm bảo hiểm. Thứ ba, mục Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nên để thành một bộ phận của Chương về Hợp đồng bảo hiểm, vì đây là việc DNBH nhận chuyển giao thay thế DNBH chuyển giao để trở thành bên bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Do vậy, mặc dù có những quy định đặc thù nhưng thực chất, đây là việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm. Thứ tư, nên nhập các quy định về doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm vào phần quy định về DNBH để thành một Chương có tên gọi là Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm. Thiết nghĩ, đại lý bảo hiểm nhân danh DNBH để thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên phải là một phần trong quy định về DNBH. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới bảo hiểm phải được coi là một nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm vì đây là một dịch vụ hết sức quan trọng đối với thị trường bảo hiểm (tương tự như nghiệp vụ môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán). Thứ năm, những quy định về tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo tài chính phải là một phần của Chương về Doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động tài chính của DNBH mặc dù có những đặc thù, song không nên đặt thành một chương riêng, vì đây là văn bản luật điều chỉnh toàn diện về hoạt động kinh doanh bảo hiểm chứ không chỉ riêng về DNBH. Thứ sáu, không nên đặt riêng một chương về DNBH có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và thực hiện các cam kết bình đẳng về địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh, như vậy, việc đặt ra một chương điều chỉnh riêng về DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không thoả đáng. Tuy nhiên, để nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam, việc xây dựng các quy định dành riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm vẫn rất cần thiết. Do đó, Chương về DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài nên đổi tên thành Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm sẽ hợp lý hơn. Như vậy, cấu trúc của Luật KDBH có thể có các Chương sau: Chương 1: Những quy định chung; Chương 2: Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm; Chương 3: Các sản phẩm bảo hiểm; Chương 4: Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm; Chương 5: Những quy định khác (khen thưởng, xử lý vi phạm và điều khoản thi hành). 2. Một số quy định bất cập khác và hướng sửa đổi Thứ nhất, giữa BLDS và Luật KDBH không thống nhất trong quy định trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trong bảo hiểm con người. Trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, hợp đồng bảo hiểm cũng được quy định như là một loại hợp đồng thông dụng. Tuy nhiên, trong những quy định về hợp đồng bảo hiểm của BLDS không có quy định về người thụ hưởng mà chỉ có quy định về người được bảo hiểm, nhưng khái niệm về người được bảo hiểm cũng không được BLDS nêu ra. Trong khi đó, người thụ hưởng là một chủ thể liên quan rất quan trọng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Điều này tất yếu dẫn đến những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật. Điều 582 BLDS năm 1995 quy định về bảo hiểm tính mạng có ghi: "Trong trường hợp bảo hiểm tính mạng, thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo uỷ quyền của họ; nếu bên được bảo hiểm chết, thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm". Tuy nhiên, trong Luật KDBH   lại quy định, người thụ hưởng là người được bên mua bảo hiểm chỉ định nhận tiền bảo hiểm trong bảo hiểm con người và người thụ hưởng có thể không phải là người được bảo hiểm. Như vậy, nếu người được bảo hiểm chết, theo quy định của BLDS, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế của người được bảo hiểm, còn theo quy định của Luật KDBH, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng, và có thể họ không phải là người (hoặc những người) thừa kế của người được bảo hiểm. Sự bất cập này vẫn được giữ nguyên mà không được sửa đổi trong BLDS năm 2005 (Điều 578). Thiết nghĩ, nên sửa đổi Điều 578 BLDS theo hướng, việc trả tiền bảo hiểm phải theo thoả thuận, có thể trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Nếu người được bảo hiểm chết mà không phải là người thụ hưởng, thì số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng. Số tiền bảo hiểm chỉ được coi là di sản thừa kế của người được bảo hiểm nếu không có người thụ hưởng. Quy định như vậy mới đúng với mục đích của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm con người và cũng không làm ảnh hưởng đến sự điều chỉnh các loại hợp đồng bảo hiểm khác[1]. Thứ hai, Luật KDBH còn thiếu sự giải thích một số thuật ngữ rất phổ biến trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như “giá trị hoàn lại” và “chi phí hợp lý”, mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật và các văn bản dưới luật, nhưng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, có nhiều thuật ngữ khác cũng có cách hiểu không thống nhất giữa các DNBH. Các DNBH đã từng thảo luận về việc thống nhất thuật ngữ, chứng tỏ đây là một nội dung hết sức quan trọng[2]. Luật nên bổ sung cách hiểu các thuật ngữ phổ biến nhằm đảm bảo việc áp dụng được thuận lợi hơn. Thứ ba, Luật KDBH chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng là việc một chủ thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người khác để tiếp tục duy trì hợp đồng, hoặc để có một khoản tiền nhất định, hoặc không muốn hợp đồng chấm dứt vì điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Vấn đề này được Luật KDBH quy định tại Điều 26, nhưng thực tế điều khoản này chỉ đủ với hợp đồng bảo hiểm thiệt hại, khi mà bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm (vào thời điểm mua bảo hiểm). Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, bên chuyển nhượng (bên mua bảo hiểm) có thể không phải là người được bảo hiểm. Do vậy, quá trình chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người có nhiều vấn đề nảy sinh. Ví dụ: điều kiện đối người nhận chuyển nhượng như thế nào, có cần có sự đồng ý của người được bảo hiểm hay không v.v.. Những bổ sung này rất quan trọng nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau khi hợp đồng được chuyển nhượng. Nếu không có quy định cụ thể, sẽ khó khăn khi xem xét trách nhiệm của DNBH trong việc chấp thuận việc chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm. Trên thực tế, các DNBH đều thoả thuận với bên mua bảo hiểm về việc không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thoả thuận chuyển nhượng, từ đó dẫn đến tình trạng DNBH chấp nhận việc chuyển nhượng để tiếp tục thu phí, đến khi sự kiện bảo hiểm xảy ra lại từ chối trả tiền bảo hiểm mà chỉ hoàn lại phí bảo hiểm vì hợp đồng không còn hiệu lực. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, mặc dù theo nguyên tắc thoả thuận, phải có sự chấp thuận của DNBH, nhưng để đảm bảo quy định của pháp luật về bên mua bảo hiểm, cần sửa đổi, bổ sung Điều 26 theo hướng quy định cụ thể người nhận chuyển nhượng phải thoả mãn điều kiện là bên mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, vì việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người không làm thay đổi người được bảo hiểm, nên việc chuyển nhượng phải có sự đồng ý của chủ thể này. Nếu người được bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp khác là điều kiện để chuyển nhượng hợp đồng[3]. Thứ tư, khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm không thật sự hợp lý với bản chất của bảo hiểm con người. Theo quy định của Luật KDBH thì "quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm". Thực chất, quyền lợi có thể được bảo hiểm quy định như trên chỉ là những quyền lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Trên thực tế, bảo hiểm con người không mang yếu tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù đắp tổn thất tính mạng, sức khoẻ của người được bảo hiểm đối với chính người này và người thân của họ (đồng thời có thể có yếu tố tiết kiệm như trong bảo hiểm nhân thọ chẳng hạn). Chính vì vậy, những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá đúng mức nhằm xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm như quan hệ hôn phối, quan hệ ông bà với cháu, giữa chủ sử dụng lao động và người lao động v.v.. trong bảo hiểm con người[4]. Trong Luật KDBH, cũng đã có quy định cụ thể về việc bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho những ai. Nhà làm luật có dự liệu “mở” là bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho "người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm", nhưng nếu căn cứ vào khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm trong Luật KDBH, thì những đối tượng này bị bó hẹp rất nhiều. Điều đó dẫn đến hai hệ quả: thứ nhất, làm hạn chế sự mở rộng hợp lý thị trường bảo hiểm con người; thứ hai, có thể DNBH sẽ cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm theo quy định của pháp luật, tức là đã vi phạm pháp luật. Do vậy, cần phân tách rõ giữa quyền lợi có thể được bảo hiểm của bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người. Đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản đối với đối tượng bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng và các quyền lợi khác đối với người được bảo hiểm, nếu được DNBH chấp thuận hoặc pháp luật có quy định[5]. Thứ năm, Luật KDBH có những quy định mâu thuẫn liên quan đến hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 19 Luật KDBH, nếu một bên cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên kia có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng. Nếu bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai sự thật thì DNBH có quyền thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật mà gây thiệt hại cho bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đòi bồi thường. Việc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm về bản chất là hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, Điều 22 của Luật KDBH lại quy định, nếu một bên có hành vi lừa dối thì hợp đồng vô hiệu và được xử lý theo quy định của BLDS và các quy định pháp luật liên quan. Mà theo quy định của BLDS, nếu hợp đồng vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại. Rõ ràng, cùng một vấn đề đã có hai cách xử lý khác nhau cùng được quy định trong Luật KDBH    Về mặt lý luận, nếu có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thì hợp đồng đó phải vô hiệu vì đã không tuân thủ nguyên tắc trung thực khi giao kết. BLDS  năm 2005 quy định, nếu một bên bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong thời hạn một năm, kể từ ngày ký kết hợp đồng (Điều 142 và Điều 145). Vì vậy, việc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm không thể dẫn đến hành vi đình chỉ thực hiện hợp đồng. Chính vì vậy, đề nghị sửa đổi Điều 19 khoản 2 và khoản 3 theo hướng: bỏ khoản 3 Điều 19 và sửa đổi khoản 2 Điều 19 điểm a, bằng cách bỏ cụm từ "nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm". Khi đó, Điều 19 khoản 2 chỉ áp dụng cho trường hợp bên mua bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin khi thực hiện hợp đồng, còn nếu các bên cung cấp thông tin sai sự thật để giao kết hợp đồng, sẽ áp dụng quy định tại Điều 22. Thứ sáu, Luật KDBH không phân biệt sự thay đổi của yếu tố làm cơ sở xác định phí bảo hiểm là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan[6]. Tại khoản 2 Điều 20 Luật KDBH quy định: "Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm". Quy định như vậy sẽ gây thiệt thòi cho bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Thiết nghĩ, trong trường hợp có những yếu tố làm tăng mức độ rủi ro, cần thiết phải phân biệt là do nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân chủ quan. Nếu mức độ rủi ro tăng lên do yếu tố chủ quan, ví dụ người được bảo hiểm tham gia những công việc có tính chất độc hại, nguy hiểm hoặc có nếp sinh hoạt ngày càng không điều độ, có ý thức trong việc gây giảm sút sức khoẻ chính mình v.v.. thì DNBH có quyền tăng phí bảo hiểm. Ngược lại, nếu rủi ro tăng lên do nguyên nhân khách quan như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu v.v.. DNBH không thể đương nhiên lấy đó làm căn cứ tăng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận với bên mua bảo hiểm. Trong quan hệ bảo hiểm, tính không xác định chính là một trong những yếu tố của rủi ro, là động cơ để bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng. DNBH không thể vì quyền lợi của riêng mình mà tự ý tăng phí bảo hiểm hoặc đình chỉ hợp đồng khi nguyên nhân làm tăng yếu tố rủi ro là khách quan. Do vậy, điều 20 khoản 2 Luật KDBH nên quy định theo hướng: khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm mà nguyên nhân từ phía bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, thì DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp này, nếu bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. [1] Xem: Trần Vũ Hải (2006), Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ -những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội [2] Phải mất gần nửa năm nghiên cứu và thảo luận, việc thống nhất 29 thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ bằng tiếng Việt mới được hoàn tất và thông qua tại Hội nghị thường niên lần thứ 8 của các DNBH nhân thọ, vào giữa năm 2006 (nguồn: www.taichinhvietnam.com) [3] Sđd [4] Thực tế hiện nay có nhiều doanh nghiệp đã mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động. Tuy nhiên, soi chiếu vào quy định về quyền lợi có thể được bảo hiểm hiện hành thì không phù hợp. [5] Sđd [6] Sđd
Luận văn liên quan