Đề tài Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá trình thảo luận chưa đi đến thống nhất. Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhằm cung cấp một số thông tin tổng hợp của các chuyên gia kinh tế trong nước làm tài liệu tham khảo phục vụ các nhà lãnh đạo và những người quan tâm, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia biên soạn chuyên đề “TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

doc84 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá trình thảo luận chưa đi đến thống nhất. Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhằm cung cấp một số thông tin tổng hợp của các chuyên gia kinh tế trong nước làm tài liệu tham khảo phục vụ các nhà lãnh đạo và những người quan tâm, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia biên soạn chuyên đề “TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Chương I : VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Sự lựa chon mô hình thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCH ở Việt Nam Như mọi người đã biết, KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ văn minh của nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển CNTB; CNTB đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của KTTT để phục vụ mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận và - một cách khách quan - nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, KTTT TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực, nó còn có những mặt tiêu cực, có mặt từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân TBCN chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của CNTB càng bọc lộ sâu sắc. CNTB tỏ ra bất lực trước các vấn đề xã hội, sự bất công và bất ổn xã hội, hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, CNTB còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm - ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế TBCN toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn, một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo. Nền KTTT TBCN hiện nay đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và “tự tiến hoá” để chuẩn bị sang hậu công nghiệp. Đây là yếu tố khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn tiến lên thì không thể dừng lại ở mô hình KTTT TBCN. Sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công và sau Chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu bước vào xây dựng kinh tế trên cơ sở xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu xô viết với mong muốn khắc phục những tồn tại của CNTB, xây dựng chế độ mới, phương thức sản xuất mới XHCN tốt đẹp hơn. Mặc dù sau hơn 70 năm xây dựng CNXH, mô hình CNXH kiểu xô viết đã đạt được một số thành tựu vĩ đại, nhưng có lẽ do nôn nóng muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, cộng với sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý… đã không tôn trọng quy luật khách quan, xoá bỏ kinh tế thị trường cùng các quy luật hoạt động của nó nên mô hình trên đã thất bại. Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu, lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào là một câu hỏi lớn, không dễ tìm ra ngay câu trả lời. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu xô viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung cao độ và bao cấp. Mô hình này phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau, mô hình này đã bộc lộ những khuyết điểm. Trong khi đó, công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm bắt nguồn từ bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối tư duy và hành động giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không đúng với thực tế Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán mạnh cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có những nhận thức mới về chính sách xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3 năm 1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khẳng định: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996) đưa ra một số kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Từ lúc đó đã nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, nhưng chưa dùng khái niệm “KTTT”. Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) chính thức dùng khái niệm “KTTT định hướng XHCN” là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại, khái quát, đúc kết kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, đặc biệt là thực tế xây dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam, Đảng đưa ra chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 2. Sự hình thành khung thể chế KTTT định hướng CNXH Trước hết chúng ta phải nắm bắt và hiểu rõ những ưu thế và khuyết tật cơ bản của nền KTTT: Phân công lao động xã hội theo ngành và theo lãnh thổ và sự xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất là hai điều kiện tiên quyết của nền KTTT. Nền KTTT có những ưu thế : - Tự động đáp ứng nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách linh hoạt và hợp lý; phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi trong nhu cầu của xã hội và các điều kiện kinh tế trong nước và quốc tế. Điều này là thể hiện những bài học “nhập môn” của người sản xuất trong nền KTTT luôn luôn phải tìm hiểu nhu cầu xã hội để sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? - Có khả năng huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội. - Tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao (và tất yếu có lợi nhuận nhiều) và “thị trường là chiến trường” với hình thức phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém. Đây cũng lại là một bài học “nhập môn” của người sản xuất là: sản xuất thế nào? - Buộc các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên quy mô lớn. - Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng khoa học - công nghệ - kỹ thuật, nền kinh tế năng động và hiệu quả cao. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật: - Động lực lợi nhuận cao tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm pháp luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần, mang theo các tệ nạn như buôn gian bán lận, tham nhũng,… - Sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến mất cân đối vĩ mô, lạm phát, thất nghiệp, sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế; sự cạnh tranh dẫn đến độc quyền, hạn chế nhiều những ưu điểm của nền kinh tế thị trường. - Tạo ra sự bất bình đẳng, phân hoá giàu - nghèo. - Lợi ích chung, dài hạn của xã hội không được quan tâm đúng mức; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá nghiêm trọng và trên phạm vi rộng nếu Nhà nước không có biện pháp quản lý chặt chẽ. - Sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: đến năm 2010, về cơ bản phải hình thành đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN, và coi đây là một giải pháp có tính đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phương pháp tiếp cận bản chất, nguyên tắc và nội dung thể chế KTTT định hướng XHCN đòi hỏi phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng XHCN). Ở đây nổi lên 3 vấn đề: Thứ nhất, đối với cái chung (KTTT), trong quá trình hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN phải tạo lập và vận dụng nghiêm túc, đồng bộ các “yếu tố”: - Các chủ thể kinh tế dựa trên sự đa dạng các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Các chủ thể KTTT phải được tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. - Các phạm trù vốn có của KTTT như: hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung - cầu, giá cả thị trường và lợi nhuận. - Các quy luật của KTTT. - Cơ chế vận hành nền KTTT - cơ chế thị trường. Thứ hai, đối với “cái đặc thù” (định hướng XHCN), trong quá trình hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN phải quán triệt: - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng kinh tế này giữ vai trò quan trọng trong mô hình thể chế KTTT định hướng XHCN và nó định hướng suy nghĩ và hành vi của các chủ thể KTTT, của con người trong xã hội. - Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là yếu tố quan trọng, quyết định những định hướng xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN. - Các mục tiêu, nguyên tắc và những nhiệm vụ cơ bản hướng đến các mục tiêu và đặc trưng của CNXH mà nước ta đang xây dựng. Thứ ba, trong mối quan hệ giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng XHCN) thì KTTT thể hiện với tư cách là động lực, phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới XHCN. Định hướng XHCN giữ vai trò dẫn dắt quá trình thực tiễn phát triển KTTT theo những mục tiêu đã định. Tính định hướng XHCN quy định quá trình phát triển KTTT ở nước ta phải là thực hiện cho được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ phương pháp tiếp cận nêu trên và trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận của gần 20 năm đổi mới, việc hình thành khung cơ bản của thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta thể hiện ở những nội dung cốt lõi sau đây: - Phát triển nền sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở đa dạng các hình thức sở hữu, trong đó công hữu (sở hữu xã hội) XHCN giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau. - Hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các thị trường trong mối quan hệ chỉnh thể, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Nhà nước (Chính phủ) điều hành kinh tế vĩ mô. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc tồn tại khách quan của thị trường và cơ chế thị trường, tạo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các chủ thể KTTT hoạt động. - Thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính, đồng thời áp dụng các hình thức phân phối khác… Coi trọng hiệu quả, đồng thời đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối và phân phối lại. - Xây dựng một hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội theo hướng từng bước thực hiện chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân, quan tâm hỗ trợ những người nghèo có hoàn cảnh khó khăn và những người được hưởng chính sách xã hội. - Xây dựng hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả của thể chế KTTT, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những nội dung cốt lõi của khung thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta cần được triển khai đồng thời và đồng bộ. 3. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là sự phản ảnh quyền lực và yêu cầu của quyền lực nhân dân, phản ánh nhu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhà nước trong hệ thống chính trị là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động đời sống xã hội. Nhà nước ta có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của Nhà nước ta nhằm giải quyết các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Các chức năng đối ngoại của Nhà nước ta nhằm giải quyết các quan hệ của Nhà nước ta với các dân tộc và quốc gia khác trên trường quốc tế trên cơ sở kiên định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hóa. Việc thực hiện hai chức năng đối nội và đối ngoại được thực hiện trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong một thể thống nhất. Trên giác độ hình thức pháp lý, quản lý nhà nước thể hiện trong ba nội dung: lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi quốc gia và cả những vấn đề liên quan đến thế giới. 3.1 Những thành tựu quản lý nhà nước trong gần 20 năm đổi mới của Nhà nước ta Qua gần 20 năm đổi mới, quản lý nhà nước của Nhà nước đã có những tiến bộ nhất định, đó là: + Chuyển từ quản lý kinh tế - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết và mệnh lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật - pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước; + Thay hình thức quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với việc tạo nên hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh (với các doanh nghiệp có quyền kinh doanh các ngành nghề không bị pháp luật cấm), quyền tự chủ trong kinh doanh, xoá bỏ độc quyền về ngoại thương của Nhà nước, giảm dần sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại… Thực hiện các chủ trương về đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để cải cách bộ máy nhà nước. Tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh của đất nước, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào hoạt động QLNN và bản thân Nhà nước cũng từng bước chuyển sang quản lý những gì thực sự cần thiết thuộc về chức năng quản lý của mình ở các ngành, nghề có khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân và về an ninh, quốc phòng, để đạt hiệu quả cao; trả lại cho xã hội những công việc mà xã hội, các thành phần kinh tế khác có thể làm tốt hơn. Từng bước tạo được cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. + Nước ta đã trở thành thành viên nhiều tổ chức quốc tế (ASEAN, APEC, WB, IMF, ADB, đang từng bước để sớm trở thành thành viên WTO, ký kết tham gia nhiều Điều ước quốc tế,…), ký nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương (Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam - EU, ký và triển khai thực hiện AFTA,…),… + Cải cách lập pháp, xây dựng các văn bản pháp luật cũng được thể chế hoá bằng việc dựa vào Luật ban hành để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản pháp luật dần dần đi vào nền nếp, theo một quy trình thống nhất,… + Cải cách hành chính, tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã có những bước được điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. Chính phủ tập trung thực hiện chức năng QLNN ở tầm vĩ mô, từng bước xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. 3.2. Những điều đã đạt được về mặt QLNN của Nhà nước ta trong thời gian qua có thể nhìn nhận thông qua việc Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước về: lập pháp, hành pháp và tư pháp. a. Trong ba mặt đó, thì chức năng lập pháp của QLNN được thể hiện thông qua việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật là rất quan trọng. Hệ thống pháp luật từ Hiến pháp đến các luật và văn bản dưới luật của Nhà nước là sự cụ thể hoá quyền lực nhà nước và lợi ích của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với toàn bộ xã hội thông qua các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Còn QLNN nói chung, là sự điều hành, điều chỉnh các hành vi, hành động của các tổ chức và của mọi công dân theo luật định bằng quyền lực của Nhà nước. Hiến pháp 1992 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 4 năm 1992 và được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố ngày 17 tháng 4 năm 1992. Hiến pháp 1992 là một bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá những quan điểm cơ bản của Đảng: đổi mới mạnh mẽ về kinh tế, đồng thời đổi mới vững chắc về chính trị, khẳng định mục tiêu XHCN. Về chế độ chính trị: Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy định những nội dung cơ bản như: Quyền dân tộc cơ bản, chủ quyền quốc gia, quyền tự quyết của dân tộc; về tính nhân dân của Nhà nước, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,…; về tính dân tộc của Nhà nước là Nhà nước của tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam,…; về chính sách đối ngoại là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia, dân tộc trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng và cùng có lợi; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Về kinh tế, Hiến pháp năm 1992 quy định: chính sách kinh tế ở nước ta là nhất quán phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Mục đích của chính sách kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật. Về bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc phát huy rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia QLNN, nguyên tắc pháp chế XHCN. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước tiếp tục được củng cố và phát triển và có nhiều cái mới so với quy định của Hiến pháp 1980, như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước thay thế cho chế định Hội đồng Nhà nước; Chính phủ thay thế cho Hội đồng B
Luận văn liên quan