Đề tài Tìm hiểu về quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam

Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư cách là tổ chức phát hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán. Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

doc37 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5951 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư cách là tổ chức phát hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán. Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quỹ đầu tư chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu và đề ra những biện pháp thúc đẩy sự ra đời của Quỹ đầu tư để có thể vận dụng vào thực tiễn là rất cần thiết. B. NỘI DUNG I. TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN 1.1 Khái niệm về quỹ đầu tư Khi bắt đầu tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, một trong những khó khăn lớn nhất mà người đầu tư phải vượt qua đó là việc lựa chọn chứng khoán để đầu tư. Việc này được sự trợ giúp bởi các nhà môi giới (Broker) hoặc kinh doanh chứng khoán (Dealer). Tuy nhiên, dù được thông tin và tư vấn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư vẫn được xem như là người quyết định cuối cùng, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các điều kiện và phẩm chất cá nhân. Thị trường chứng khoán lại tập hợp rất nhiều các sản phẩm đa ngành, thế nên cho dù người đầu tư có tập trung vào một lĩnh vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng chuyển biến một cách ngọn ngành được. Chính vì vậy, nhiều người đầu tư đã lựa chọn cho mình một phương tiện để thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán đó là Quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán là một định chế tài chính trung gian có nhiệm vụ tập trung những nguồn vốn nhỏ lẻ của nhiều người trong xã hội thành những nguồn vốn lớn nhằm đầu tư dài hạn vào các dự án có nhu cầu vốn lớn trong nền kinh tế hoặc đầu tư đầu tư vào thị trường chứng khoán. Một nét đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa quỹ với các tổ chức khác tham gia vào thị trường chứng khoán là: quỹ vừa là một tổ chức phát hành chứng khoán lại vừa là một tổ chức kinh doanh chứng khoán. Qua việc phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư, quỹ thu được một khối lượng tiền khá lớn, sau đó chúng sẽ được quỹ sử dụng đầu tư vào các loại chứng khoán. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư mua cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi từ hoạt động đầu tư chứ không nhằm thu lãi hàng tháng. Các Quỹ đầu tư thường ít tham gia điều hành hoạt động của các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư từ quỹ. Các bên tham gia hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao về đầu tư chứng khoán, thực hiện việc quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của Quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Người đầu tư góp vốn vào Quỹ đầu tư và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ. . Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán bởi 05 yếu tố: Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư. Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt các yêu cầu về lợi nhuận. Có lợi thế trong việc tiếp cận các dự án đầu tư và hưởng ưu đãi về chi phí giao dịch. Được quản lý chuyên nghiệp: cán bộ có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và chuyên sâu vào các lĩnh vực đầu tư. Giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan thẩm quyền Tính năng động của quỹ đầu tư. Mỗi nhà đầu tư tham gia đầu tư vào quỹ sẽ sở hữu một phần trong tổng danh mục đầu tư của quỹ. Việc nắm giữ này được thể hiện thông qua việc sở hữu các chứng chỉ quỹ đầu tư. 1.2 Phân loại các quỹ đầu tư Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau. 1.2.1 Căn cứ vào nguồn vốn huy động: a, Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng) Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại. b, Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên) Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ. 1.2.2 Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn: a, Quỹ đóng Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp dụng tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý. b, Quỹ mở Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam. 1.2.3 Căn cứ vào cơ cấu và hoạt động của Quỹ a, Quỹ đầu tư dạng công ty Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân. b, Quỹ đầu tư dạng hợp đồng . Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán có thể ở dạng quỹ công chúng hoặc quỹ thành viên, và là dạng đóng. 1.3 Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán. Đối với nền kinh tế - Quỹ đầu tư đóng vai trò là các chuyên gia tư vấn về quản lý tiếp thị thông tin về tài chính vừa là những người đánh giá hiệu quả dự án đầu tư, giúp cho nhà đầu tư đánh giá được tính khả thi của dự án đầu tư. - Doanh nghiệp có khả năng thu hút được vốn với chi phí thấp hơn, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển. Cung cấp các kỹ năng phát triển thị trường trong nước. Đối với các nhà đầu tư: Giúp các nhà đầu tư riêng lẻ đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi ích - Tính thanh khoản: Các nhà đầu tư vào quỹ đầu tư có thể bán chứng chỉ quỹ đầu tư hoặc cổ phiếu đang nắm giữ vào bất kỳ lúc nào cho chính Quỹ đầu tư (trong trường hợp quỹ mở) hoặc trên thị trường thứ cấp ( trong trường hợp quỹ đóng) để thu hồi vốn. Chứng khoán của quỹ đầu tư là một trong những tài sản có tính lỏng cao trên thị trường (giá bán thay đổi phụ thuộc vào thay đổi của tổng giá trị tài sản danh mục của quỹ đầu tư phát hành ra cổ phiếu). - Đa dạng hoá đầu tư: Bằng việc sử dụng tiền thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân tán vào các danh mục các chứng khoán, các quỹ đầu tư và làm tăng cơ hội thu nhập cho các khoản đầu tư. - Dễ tiếp cận và lựa chọn: Do loại hình Quỹ đầu tư là loại hình cho các nhà đầu tư cá nhân nên một khi hình thành các quỹ đầu tư luôn tạo những điều kiện thuận lợi cho công chúng dế tiếp cận và giao dịch ( thông tin được cung cấp qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo kinh tế, internet…).Tuỳ theo mục đích và sở thích, họ có thể đầu tư vào danh mục cổ phiếu, trái phiếu, danh mục các công cụ của thị trường tiền tệ với hang chục loại quỹ khác nhau. - Tiết kiệm chi phí đầu tư: Nếu các nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư thì chi phí giao dịch và nghiên cứu trên một đồng vốn giảm đi rất nhiều do khả năng tiếp cận với các dự án dễ dàng hơn và do quỹ đầu tư được coi là các nhà đầu tư lớn nên có khả năng nhận được những ưu đãi vế chi phí giao dịch. - Tăng cường tính chuyên nghiệp cho việc đầu tư: Các công ty quản lý quỹ có các nhà quản lý ra quyết định đầu tư dựa các nghiên cứu hoạt động của từng công ty mà họ quan tâm và đối với từng loại chứng khoán cụ thể trong những điều kiện nhất định. - Cung cấp cho các nhà đầu tư cơ hội đầu tư vào thị trường vốn quốc tế: Quỹ đầu tư giúp các nhà đầu tư trong nước đầu tư vốn đầu tư vốn ra nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận với chi phí hợp lý và rủi ro thấp. Đối với thị trường chứng khoán - Dưới góc độ là tổ chức phát hành, quỹ đầu tư phát hành các chứng chỉ quỹ để thu hút vốn. Quỹ đầu tư có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của thị trường sơ cấp. - Dưới góc độ là nhà đầu tư, quỹ đầu tư phải dành phần lớn giá trị tài sản để đầu tư vào thị trường chứng khoán theo danh mục đã lựa chọn. Quỹ đầu tư sẽ có tác dụng tăng cung kích cầu chứng khoán thông qua phương thức đầu tư chuyên nghiệp và khoa học, tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nước có thị trường chứng khoán còn non trẻ như Việt Nam. 1.4 Các bên tham gia hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán a)Công ty quản lý quỹ Công ty quản lý quỹ đầu tư thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. - Điều kiện thành lập công ty quản lý quỹ: quan cấp phép: UBCKNN Loại hình công ty: có thể là công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh Nghiệp vụ kinh doanh: quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và danh mục quỹ đầu tư chứng khoán. Ngoài ra còn có quản lý các quỹ đầu tư nước ngoài có mục tiêu đầu tư vào Việt Nam. Điều kiện vốn pháp định: Tối thiểu là 25 triệu đồng. Bộ tài chính quy định cụ thể mức vốn pháp định của công ty quản lý quỹ dựa trên quy mô vốn được ủy thác quản lý. Điều kiện về nhân sự: Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. b) Ngân hàng giám sát Là ngân hàng được công ty quản lý quỹ lựa chọn và Đại hội các nhà đầu tư chấp thuận, chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát và đảm bảo hoạt động quản lý quỹ phù hợp với những quy định của luật pháp hiện hành và điều lệ quỹ. Chức năng của ngân hàng giám sát là: - Bảo vệ tài sản của quỹ - Lưu ký tài sản của quỹ - Cách ly tài sản của quỹ với những tài sản khác của ngân hàng - Giám sát để đảm bảo công ty quản lý quỹ quản lý tài sản của quỹ tuân theo quy định của pháp luật và điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán - Thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và chuyển giao tiền, chứng khoán liên quan đến hoạt động của quỹ theo yêu cầu hợp pháp của công ty quản lý quỹ. - Tính toán giá trị tài sản ròng của quỹ (NAV) và công bố ra công chúng. - Giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty quản lý quỹ. - Báo cáo UBCKNN khi phát hiện công ty quản lý quỹ vi phạm pháp luật hoặc điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán. - Định kỳ cùng công ty quản lý quỹ đối chiếu sổ kế toán, báo cáo tài chính và hoạt động giáo dịch của quỹ - Làm đại lý chuyển nhượng cho quỹ - Quản lý thông tin nhà đầu tư của quỹ c) Công ty kiểm toán Thực hiện kiểm toán hoạt động định kỳ của quỹ đầu tư. Công ty kiểm toán được bộ tài chính cho phép kiểm toán công ty niêm yết. d) Công ty luật Tư vấn cho công ty những vấn đề liên quan đến pháp lý 1.5 Nguyên tắc hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán 1.5.1 Nguyên tắc huy động vốn Việc huy động vốn của Quỹ đầu tư thông qua phát hành chứng khoán. Tuy nhiên các quỹ chỉ được phát hành một số loại chứng khoán nhất định để tạo thuận lợi cho việc quản lý của quỹ cũng như hoạt động đầu tư của những người đầu tư. Tài sản của Quỹ đầu tư chủ yếu để đầu tư vào chứng khoán chứ không phải trực tiếp đem vào đầu tư mở rộng sản xuất. Quỹ không thể phát hành trái phiếu tức đi vay để đầu tư vào chứng khoán vì như thế sẽ tạo nên môi trường chứng khoán ảo. Do vậy, nguyên tắc chung là quỹ chỉ phát hành cổ phiếu (mô hình công ty) và chứng chỉ hưởng lợi (quỹ dạng tín thác). Ngoài ra, quỹ không được phép phát hành trái phiếu hay đi vay vốn để đầu tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí tạm thời khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn. 1.5.2 Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản. Tổ chức này chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà đầu tư. Chức năng giám sát tuỳ từng mô hình quỹ mà pháp luật các nước giao cho một tổ chức tín thác hay hội đồng quản trị. Theo quy định của Mỹ thì tài sản của quỹ có thể được bảo quản bởi một ngân hàng, một nhà kinh doanh môi giới chứng khoán được đăng ký hay do chính quỹ đó quản lý. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thông thường là ngân hàng. Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo quản tài sản trong quá trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn mà phải cùng bàn bạc, biểu quyết với các chủ thể khác như công ty quản lý quỹ… Riêng đối với hội đồng quản trị thì các tổ chức này có quyền tự quyết định nếu như nó không liên quan tới chuyên môn của hội đồng quản trị. Để đảm bảo an toàn cho tài sản của quỹ cũng như sự ổn định của thị trường chứng khoán, một số nước nghiêm cấm Quỹ đầu tư bán khống chứng khoán. 1.5.3 Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ Khi các nhà đầu tư đầu tư hoặc rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác định giá phải dựa trên nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với các nhà đầu tư mua hoặc bán chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách thức xác định giá trị tài sản của quỹ khi mua bán chứng chỉ. Đối với Quỹ mở do chủ yếu đầu tư vào chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán nên giá trị tài sản được xác định theo giá trị của chứng khoán đó tại thời điểm đó trên thị trường. Sau khi xác định xong giá trị tài sản của quỹ sẽ được chia cho số cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đang lưu hành để xác định giá trị cho mỗi chứng chỉ. Giá bán và giá mua lại sẽ bằng giá trị của mỗi chứng chỉ cộng thêm một số chi phí cho việc mua bán đó. Giá thị trường = NAV + chi phí giao dịch Trong đó NAV : Giá trị tài sản ròng (Net Asset Value). Tổng giá trị tài sản ròng của quỹ bằng tổng giá trị các tài sản có và các khoản đầu tư của quỹ trừ đi các nghĩa vụ nợ tại thời điểm tính toán. Giá trị tài sàn ròng trên một cổ phần của quỹ được tính bằng  Đối với Quỹ đóng thì giá cổ phần của quỹ sẽ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán, nó lấy NAV làm cơ sở nhưng không gắn liền với giá trị NAV. Khi một Quỹ đóng bán cổ phiếu với giá thấp hơn NAV thì được gọi là bán chiết khấu (Discount) và ngược lại nếu giá bán cổ phiếu lớn hơn NAV thì được gọi là bán có thu phí (Premium). Thông thường tại thị trường chứng khoán các nước phát triển rất ít Quỹ đầu tư được giao dịch có mức Premium, mà phần lớn ở mức Discount từ 15% đến 20%. Chỉ số này không ổn định mà biến động theo các điều kiện của thị trường. Thường những quỹ được giao dịch có chỉ số ở mức Discount đều có thể đạt được mức Premium cao trong tương lai và ngược lại. 1.5.4 Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút vốn đầu tư vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Do được cung cấp thông tin mà người đầu tư đánh giá đúng về thực trạng của các khoản đầu tư, khả năng chuyên môn của những người quản lý quỹ để có thể quyết định đầu tư đúng đắn. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các nhà đầu tư. Các nước thường quy định Quỹ đầu tư khi gọi vốn từ công chúng phải làm Bản cáo bạch (Prospectus) để công bố toàn bộ thông tin về công ty quản lý, tổ chức bảo quản giám sát về chính sách, mục tiêu đầu tư của quỹ… 1.5.5 Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ Hầu hết các nước đều ngăn cấm các giao dịch giữa các chủ thể có liên quan với quỹ. Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là các giao dịch liên quan tới tài sản của quỹ giữa một bên là Quỹ đầu tư và một bên là chủ thể khác như công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản giám sát, người bảo lãnh phát hành, nhà tư vấn… mà việc giao dịch này có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của người đầu tư hiện tại của quỹ. Các trường hợp được coi là giao dịch có liên quan như: - Việc mua bán tài sản của quỹ với người có liên quan (nhân viên, người quản lý, đối tác, người làm thuê, cổ đông…) - Các khoản vay nợ của quỹ với chủ thể liên quan. - Một người có liên quan hành động như một đại lý đối với tài sản của quỹ trong việc mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư. - Người có liên quan cam kết với người thứ ba tham gia giao dịch với quỹ. Nói chung mỗi nước lại có quy định cụ thể riêng để ngăn chặn hiện tượng này để đảm bảo hoạt động của quỹ được lành mạnh, công bằng bảo vệ lợi ích của tất cả những người đầu tư. 1.6 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động của quỹ đầu tư 1.6.1 Giá trị tài sản