Đề tài Trẻ đường phố Việt Nam Những nguyên nhân truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong nền kinh tế đang phát triển

Trẻ đường phốhiện đang là một trong những vấn đềxã hội bức xúc của Việt Nam nói chung và của Hà Nội và Thành phốHồChí Minh (Tp HCM) nói riêng. Gần đây hình ảnh những trẻ đường phốlang thang bán kẹo cao su trong các quán ăn, hay trẻ đánh giày tại các góc phố đã không còn xa lạvới người dân thành phố. Đôi khi người ta gọi chúng là trẻ đường phốhoặc trẻ“bụi đời”. Tuy nhiên, nguyên nhân, cơchếnào đã khiến những trẻ này bỏhọc và lang thang trên đường phốhiện vẫn là một vấn đềcần phải phân tích sâu hơn và cụthểhơn. Những nguyên nhân nhưgia đình quá nghèo, cha mẹly dị. có thểcoi là nguyên nhân chung của trẻ đường phố ởcác nước đang phát triển, nhưng bên cạnh đó cũng còn có những nguyên nhân cá biệt khác cho trẻ đường phố ởHà Nội và Tp HCM, hai thành phố đang trải qua những biến chuyển kinh tếvà xã hội to lớn. Trẻlang thang trên đường phốdo rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Đối với một sốem, đường phốlà lối thoát cho những bất hạnh và bạo hành trong gia đình. Đối với một sốem khác, cuộc sống trên đường phốgóp phần đem lại thu nhập cho gia đình, đểgiết thời gian và đểgiải trí. Ngoài ra, những giá trịxã hội và gia đình truyền thống bịphá vỡ, trẻthiếu tinh thần ham học cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều trẻkhông được chăm sóc và phát triển bình thường. Những trẻlàm việc và sống trên đường phốthường có rất ít kiến thức vềquyền trẻem cũng nhưkhông nhận biết được vềrất nhiều rủi ro của cuộc sống đô thịkhi không có sự hướng dẫn của người lớn. Rất nhiều trẻphải chịu những áp lực căng thẳng từviệc kiếm sống hàng ngày. Một sốtrẻuống rượu hoặc dùng ma túy đểquên đi những căng thẳng và những trải nghiệm bất hạnh mà chúng gặp phải. Một sốtrẻ được đào tạo đểtrởthành trẻ ăn xin chuyên nghiệp. Không ít trẻ đã phạm pháp hoặc tham gia vào các băng nhóm phạm pháp. Một sốtrẻkhuyết tật bị đem bán cho những người lạvà bịbắt đi xin ăn trên đường phố. Những trẻem gái thường gặp nhiều rủi ro và nguy hiểm hơn vì các em thường là đối tượng của việc xâm phạm tình dục.

pdf34 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trẻ đường phố Việt Nam Những nguyên nhân truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong nền kinh tế đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Trẻ đường phố Việt Nam Những nguyên nhân truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong nền kinh tế đang phát triển Tháng 7, năm 2005 Dương Kim Hồng* Diễn đàn Phát triển Việt Nam Kenichi Ohno∗ Diễn đàn Phát triển Việt Nam và Viện nghiên cứu chính sách quốc gia sau đại học Nhật Bản Tóm tắt Trẻ đường phố tại Việt Nam, một đất nước đang phát triển và hội nhập khá nhanh, xuất hiện do một hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm những nguyên nhân truyền thống như trẻ bị mồ côi, có cha mẹ ly dị và những nguyên nhân mới như nguyên nhân kinh tế. Trong bài viết này, các tác giả đã điểm lại định nghĩa và phân loại trẻ đường phố các nghiên cứu trước đây. Tình hình trẻ đường phố ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng được so sánh trong điều kiện thời gian thay đổi. Bài viết cũng nêu lên một cách phân loại trẻ đường phố mới dựa trên tiêu chí nguyên nhân và hoàn cảnh. Trong đó, nguyên nhân được phân thành gia đình tan vỡ, vấn đề nhận thức, và di cư kinh tế. Hoàn cảnh được phân thành những đảm bảo hiện tại và đầu tư cho tương lai. Bài viết cũng chỉ ra rằng nguyên những trẻ lang thang do nguyên nhân gia đình không hạnh phúc là nhóm trẻ khó hỗ trợ nhất trong khi đó thì nhóm trẻ di cư kinh tế lại luôn mong muốn được đi học và có một cuộc sống tốt hơn. Tuy nhiên, xu hướng phát triển của trẻ lang thang lại luôn gặp những trở ngại và bị gián đoạn, thậm chí là lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn. Và vì không phải trẻ đường phố nào cũng giống trẻ đường phố nào, những can thiệp trợ giúp trẻ cũng cần phải điều chỉnh sao cho phù hợp với nhu cầu của từng nhóm trẻ. ∗ Dương Kim Hồng là nghiên cứu viên tại Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) Hà Nội, và Kenichi Ohno là giám đốc dự án phía Nhật Bản của VDF và là giáo sư của Viện nghiên cứu chính sách quốc gia sau đại học Nhật Bản (GRIPS) tại Tokyo. Xin liên hệ qua email: dkhong@vdf.org.vn 2 Lời cảm ơn Trước tiên các tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành tới Câu lạc bộ Tình nguyên trẻ, báo sinh viên Việt Nam, những người đã giúp chúng tôi tiến hành cuộc điều tra về trẻ đường phố tại Hà Nội vào tháng 6 năm 2004. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ của Bộ lao động, thương binh và xã hội, Sở lao động, thương binh và xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em Hà Nội, Ủy ban dân số, gia đình, trẻ em quận Hoàn Kiếm, quận Ba Đình, quận Thanh Xuân và quận Tây Hồ đã giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, cung cấp những nhận xét chân thành và những số liệu rất quý giá. Chúng tôi cũng rất biết ơn những cán bộ của tổ chức Terre des hommes Foundation, những người đã chia sẻ với chúng tôi những kinh nghiệm làm việc và những số liệu quý giá về trẻ đường phố tại thành phố Hồ Chí Minh. Nếu không có những thông tin này, nghiên cứu của chúng tôi chắc hẳn sẽ không thể hoàn chỉnh được. Trong quá trình viết, chúng tôi cũng nhận được rất nhiều những nhận xét, đóng góp quý giá từ những vị khách đến tham dự hội thảo mà Diễn đàn Phát triển Việt Nam tổ chức và đồng tổ chức ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tại Việt Nam và ở Tokyo và Osaka tại Nhật Bản. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các vị khách đã đến tham dự những hội thảo này. Những buổi hội thảo của chúng tôi có được sự thành công nói trên là nhờ có sự nhiệt tình giúp đỡ rất lớn trong công tác tổ chức của Tiến sỹ Trương Thị Minh Sâm, Phó Viện trưởng, Giám đốc trung tâm Kinh tế học và Phát triển, Trung tâm khoa học, xã hội và nhân văn quốc gia, Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và chị Azko Hayashida, Viện nghiên cứu chính sách quốc gia sau đại học (GRIPS), Tokyo. Chúng tôi hiểu rằng nghiên cứu này vẫn còn rất nhiều hạn chế. Những lỗi có thể có trong nghiên cứu này chỉ thuộc trách nhiệm của hai tác giả. Chúng tôi cũng rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và nhận xét từ phía độc giả. Xin chân thành cảm ơn. 3 1. Dẫn nhập Trẻ đường phố hiện đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc của Việt Nam nói chung và của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (Tp HCM) nói riêng. Gần đây hình ảnh những trẻ đường phố lang thang bán kẹo cao su trong các quán ăn, hay trẻ đánh giày tại các góc phố đã không còn xa lạ với người dân thành phố. Đôi khi người ta gọi chúng là trẻ đường phố hoặc trẻ “bụi đời”. Tuy nhiên, nguyên nhân, cơ chế nào đã khiến những trẻ này bỏ học và lang thang trên đường phố hiện vẫn là một vấn đề cần phải phân tích sâu hơn và cụ thể hơn. Những nguyên nhân như gia đình quá nghèo, cha mẹ ly dị... có thể coi là nguyên nhân chung của trẻ đường phố ở các nước đang phát triển, nhưng bên cạnh đó cũng còn có những nguyên nhân cá biệt khác cho trẻ đường phố ở Hà Nội và Tp HCM, hai thành phố đang trải qua những biến chuyển kinh tế và xã hội to lớn. Trẻ lang thang trên đường phố do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Đối với một số em, đường phố là lối thoát cho những bất hạnh và bạo hành trong gia đình. Đối với một số em khác, cuộc sống trên đường phố góp phần đem lại thu nhập cho gia đình, để giết thời gian và để giải trí. Ngoài ra, những giá trị xã hội và gia đình truyền thống bị phá vỡ, trẻ thiếu tinh thần ham học cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều trẻ không được chăm sóc và phát triển bình thường. Những trẻ làm việc và sống trên đường phố thường có rất ít kiến thức về quyền trẻ em cũng như không nhận biết được về rất nhiều rủi ro của cuộc sống đô thị khi không có sự hướng dẫn của người lớn. Rất nhiều trẻ phải chịu những áp lực căng thẳng từ việc kiếm sống hàng ngày. Một số trẻ uống rượu hoặc dùng ma túy để quên đi những căng thẳng và những trải nghiệm bất hạnh mà chúng gặp phải. Một số trẻ được đào tạo để trở thành trẻ ăn xin chuyên nghiệp. Không ít trẻ đã phạm pháp hoặc tham gia vào các băng nhóm phạm pháp. Một số trẻ khuyết tật bị đem bán cho những người lạ và bị bắt đi xin ăn trên đường phố. Những trẻ em gái thường gặp nhiều rủi ro và nguy hiểm hơn vì các em thường là đối tượng của việc xâm phạm tình dục. Nhờ có chính sách đổi mới, đời sống người dân Việt Nam đã được cải thiện đáng kể từ cuối những năm 1980. Những thông số quốc gia cho thấy GDP bình quân đầu người đã tăng từ 156 USD vào năm 1992 lên 482 USD vào năm 2002 (Tổng cục thống kê 2004). Vào năm 1993, tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo đói là 58% nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này chỉ còn 37,4% và đến năm 2002 thì tỷ lệ này chỉ còn 28,9 % (Tổng cục thống kê 1999, 2004). Với những thành tựu này, Việt Nam là một nước có thành tích tốt nhất trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Mặc dù vậy, phát triển và hội nhập nhanh cũng khiến cho một số vấn đề xã hội truyền thống trở nên khó khăn hơn và không ít những vấn đề mới cũng phát sinh. Khi thu nhập bình quân tăng lên, một số vấn đề trở nên phúc tạp hơn và bức xúc hơn, trẻ lang thang là một trong những vấn đề nảy sinh đó1. 1 Những vấn đề xã hội khác có thể trở nên bức xúc hơn cùng với sự phát triển kinh tế bao gồm tham nhũng, phá hoại môi trường, bong bóng bất động sản, chủ nghĩa vật chất, và việc đảo lộn những giá trị văn hóa và tinh thần. 4 Những thành phố đang thay da đổi thịt hàng ngày như Hà Nội và Tp. HCM hiện đang có nhiều cơ hội và nhu cầu về việc làm mới như giúp việc nhà, đánh giày, bán hàng rong cho dân cư trong thành phố và khách du lịch, những công việc mà những ít người dân thành phố tham gia. Để đáp ứng nhu cầu này và mong muốn có thêm thu nhập đã khuyến khích nhiều lao động nông thôn ra thành phố làm việc. Kiếm sống trên đường phố đôi khi nguy hiểm và mệt nhọc hơn việc cấy cày ở nông thôn, tuy nhiên làm việc trên thành phố lại đem lại nguồn thu nhập cao hơn. Những người dân nông thôn vẫn ra thành phố làm ăn mặc dù họ phải sống xa quê hương, xa gia đình. Hơn nữa, nhịp sống thành thị nhộn nhịp cùng với những cơ hội được học tập, đào tạo và việc làm đã thu hút các thanh niên nông thôn di cư ra thành thị. Những nhân tố này chính là lực kéo cho nguồn di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, cuộc sống nông thôn Việt Nam cũng có nhiều thay đổi đáng kể, trong đó có cả những thay đổi tích cực và tiêu cực. Những đổi mới nâng cấp trong hệ thống điện đường trường trạm đã làm cho cuộc sống ở các vùng nông thôn được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có không ít các vấn đề mới nảy sinh. Cách suy nghĩ cũng như trình độ học vấn của những người dân nông thôn không thể bắt kịp được với sự thay đổi kinh tế và xã hội nhanh chóng. Những giá trị truyền thống bị mai một lãng quên trong khi những giá trị mới của cuộc sống nông thôn vẫn chưa xuất hiện. Đất trồng trọt cho tính theo đầu người cho nông dân ngày càng giảm do áp lực từ việc gia tăng dân số và việc thay đổi mục đích sử dụng của đất canh tác. Điều này tạo ra một lượng lao động dư thừa ở các vùng nông thôn. Đây chính là những lực đẩy cho nguồn di cư từ nông thôn ra thành phố của cả trẻ em và người lớn. Hiện nay đã có không ít các nhà nghiên cứu, các cán bộ nhà nước, cũng như các cán bộ cơ sở, những người làm việc trực tiếp với trẻ em thiệt thòi ở khu vực thành phố. Cũng đã có không ít những nghiên cứu và những báo cáo về vấn đề này với những mục đích và phương pháp luận khác nhau. Dựa trên một số nghiên cứu sẵn có, chúng tôi muốn phân tích sâu hơn nữa vấn đề trẻ em đường phố và tập trung vào phân tích những tác động đặt trong mối tương quan với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Bài viết có bố cục như sau. Phần tiếp theo là phần giới thiệu về một số định nghĩa và cách phân loại trẻ đường phố. Phần 3 điểm lại một số những nghiên cứu về trẻ đường phố ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong đó có một điều tra gần đây của VDF. Phần 4 phân tích những nguyên nhân và tình trạng của trẻ đường phố và mối quan hệ qua lại giữa hai yếu tố này. Những sự dịch chuyển động giữa các nhóm trẻ ở những điều kiện khác nhau cũng được đề cập tới. Phần 5 trình bày một số nghiên cứu tình huống của một số trẻ đường phố trước đây. Phần 6 là phần kết luận. 2. Thế nào là một trẻ đường phố? Trẻ đường phố là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất được các tổ chức quốc tế và các cơ quan có liên quan sử dụng cho nhóm trẻ được đề cập đến trong nghiên cứu này của chúng tôi. Thuật ngữ này cũng được chấp nhận ở Việt Nam và được sử dụng chính 5 thức trong các bộ và các cơ quan trực thuộc chính phủ. Tuy nhiên, gần đây, một số nhà nghiên cứu trong các cơ quan nhà nước của Việt Nam chuyển sang dùng thuật ngữ trẻ lang thang và kiếm sống trên đường phố. Trong bài tham luận này, thuật ngữ trẻ đường phố vẫn được sử dụng vì đây vẫn là thuật ngữ đã và đang được dùng rộng rãi và phổ biến trên thế giới. Ngoài việc đề cập đến việc lựa chọn thuật ngữ sử dụng, phần này còn đề cập đến những khó khăn trong việc xây dựng một thuật ngữ hoàn chỉnh và việc xác định số lượng trẻ theo định nghĩa tương ứng. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn chưa có một con số chính xác cho số trẻ lang thang lao động và kiếm sống trên đường phố, con số ước tính được các tổ chức đưa ra cũng rất khác biệt. Rõ ràng là vấn đề định nghĩa và xác định số lượng có liên quan chặt chẽ với nhau. Để có thể so sánh được các con số về trẻ lang thang đường phố được xác định tại những địa điểm và thời gian khác nhau thì cần phải có một số liệu được thu thập theo một định nghĩa thống nhất - hoặc ít nhất cũngtương tự. Ngoài ra, trẻ em đường phố rất khác nhau và không đồng nhất hoàn toàn. Mỗi trẻ có một hoàn cảnh gia đình khác nhau, một lý do khác nhau phải sinh sống trên đường phố, có trình độ học vấn khác nhau và những yêu cầu khác nhau cần được đáp ứng. Một cách phân loại hiệu quả sẽ đem lại một cách hiểu đúng và chính xác hơn về những vấn đề và những nhu cầu của từng nhóm trẻ đường phố. 2.1. Những định nghĩa của chính phủ và các tổ chức quốc tế Có nhiều cách khác nhau để định nghĩa trẻ đường phố. Phần này sẽ giới thiệu về một số định nghĩa được sử dụng rộng rãi hiện nay, đó là định nghĩa của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA), định nghĩa của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và định nghĩa của Terre des hommes Foundation, một tổ chức phi chính phủ của Thụy Sỹ hoạt động ở Việt Nam từ năm 1989. Theo MOLISA, trẻ đường phố là một trong mười nhóm trẻ2 có hoàn cảnh đặc biệt. Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư trú không ổn định, hoặc là trẻ em cùng với gia đình đi lang thang (Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua, kỳ họp lần thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, trang 2). Theo định nghĩa này, tổng số trẻ em lang thang trên cả nước ước tính khoảng 19.000 em trong năm 2003, trong đó các em lang thang ở Hà Nội chiếm khoảng 1.500 và ở Tp. Hồ Chí Minh là khoảng gần 9.000 em. MOLISA không tiến hành phân loại trẻ em lang thang. UNICEF định nghĩa trẻ em đường phố là những trẻ dưới 18 tuổi dành phần lớn thời gian của mình trên đường phố. Theo UNICEF, trẻ em đường phố có thể được chia làm 3 nhóm khác nhau: Trẻ sống trên đường phố, trẻ lao động trên đường phố và trẻ lang thang sống cùng gia đình trên đường phố. Trẻ sống trên đường phố là những trẻ đã mất mối liên hệ cùng gia đình và phải sống một mình trên đường phố. Trẻ lao động trên đường phố là 2 Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm (1) trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; (2) trẻ em khuyết tật, tàn tật; (3) trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; (4) trẻ em nhiễm HIV/AIDS; (5) trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; (6) trẻ em phải làm việc xa gia đình; (7) trẻ em lang thang; (8) trẻ em bị xâm hại tình dục; (9) trẻ em nghiệm ma túy; (10) trẻ em vi phạm pháp luật. 6 những trẻ dành toàn bộ hoặc phần lớn thời gian trên đường phố để lao động kiếm sống cho gia đình hoặc cho bản thân trẻ (những trẻ này có thể vẫn còn gia đình và không thường xuyên ngủ qua đêm trên đường phố). Trẻ lang thang sống cùng gia đình trên đường phố là những trẻ sinh sống cùng gia đình và lang thang kiếm sống trên đường phố. Những định nghĩa và cách phân loại của Terre des hommes cũng tương tự như định nghĩa và cách phân loại của UNICEF. Do vậy mà những nghiên cứu của UNICEF và Terre des hommes khá tương đồng để có thể so sánh được. Trong cuộc điều tra được tiến hành vào năm 2000 của tổ chức Terre des hommes (2004), trẻ đường phố được định nghĩa là những trẻ “dưới 18 tuổi, kiếm tiền bằng những nghề không ổn định ngoài đường phố như xin ăn, lượm rác, bán hàng rong, phu khuân vác, đánh giày, móc túi, ăn cắp vặt và thuộc bất cứ nhóm nào trong những nhóm sau: Bảng 1. Cách phân loại trẻ đường phố của tổ chức Terre des hommes Nhóm Định nghĩa nhóm A Trẻ em bỏ nhà ra đi hoặc vô gia cư A1: Ngủ ngoài đường A2: Không ngủ ngoài đường B Trẻ em ngủ ngoài đường với gia đình hoặc người bảo hộ C Trẻ em sống ở nhà nhưng làm việc trong những môi trường “nguy hiểm” D Lao động trẻ em nhập cư làm nghề không ổn định D1: Ngủ ngoài đường D2: Không ngủ ngoài đường Ghi chú: “nguy hiểm” có nghĩa là trẻ phải làm việc trong một trong những điều kiện sau: (1) làm việc ban đêm; (2) làm công việc không thường xuyên mại dâm hay ma cô; (3) ăn xin; và (4) sử dụng hoặc bán ma túy. Nguồn: Biên soạn từ tài liệu của tổ chức Terre des hommes (2004), tr.19. Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu sử dụng cách định nghĩa của tổ chức Terre des hommes kèm theo một số thay đổi nhỏ. Trẻ đường phố được hiểu là: Những trẻ dưới18 tuổi thường xuyên phải kiếm sống trên đường phố thông qua những công việc không ổn định. 2.2. Những khó khăn trong việc thu thập số liệu Giả sử tất cả các tổ chức đều thống nhất sử dụng chung một định nghĩa và cách phân loại trẻ đường phố, mà điều này rất khó có thể xảy ra, thì việc thu thập số liệu cũng không vì vậy mà dễ dàng hơn vì trẻ đường phố thường hay ẩn tránh và di chuyển trên một địa bàn rộng lớn hoặc có những trẻ chỉ lang thang trong một khoảng thời gian nhất định trong năm. Sự ẩn tránh của trẻ đường phố là một trong những khó khăn lớn nhất trong các cuộc nghiên cứu và điều tra. Một số lao động trẻ em thường dễ nhìn thấy hơn như: trẻ đánh 7 giày, trẻ đẩy xe ba gác, trẻ ăn xin, và những trẻ bán dạo những đồ rẻ tiền, áo phông, sách du lịch, kẹo cao su, vé số hoặc kết quả xổ số. Ngoài những em này, còn có một số các trẻ đường phố khác khó nhìn thấy hơn như: những trẻ bán ma túy, trẻ có liên quan đến hoạt động mại dâm và những trẻ chỉ làm việc về đêm. Ví dụ tại chợ Cầu Muối Tp. HCM, thường xuyên có một nhóm trẻ nhặt rau rơi thường làm việc từ 2 giờ đến 5 hoặc 7 giờ sáng. Những trẻ này sẽ ngủ bù vào thời gian ban ngày. Chính vì vậy, nếu cuộc điều tra về trẻ đường phố được tiến hành vào ban ngày thì những em này sẽ không nằm trong đối tượng được điều tra (Terre des hommes Foundation 2004). Có rất nhiều trẻ đường phố thường xuyên di chuyển địa bàn hoạt động từ nơi này qua nơi khác để tìm khách hàng. Một số trẻ đường phố sẵn sàng di chuyển tới bất kỳ nơi nào miễn là các em có thể tìm kiếm được một cơ hội sinh nhai. Chính sự dịch chuyển rất thất thường này của trẻ đường phố đã tạo nên những trở ngại cho việc xác định số lượng trẻ. Một số trẻ lại thường xuyên thay đổi nghề kiếm sống. Hơn thế nữa, các hoạt động trên hè phố thường mang tính chất theo mùa. Một cuộc điều tra được tiến hành vào mùa hè sẽ cho kết quả khác với một cuộc điều tra được tiến hành vào mùa đông. Kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng giảm số trẻ đường phố. Theo tiến sỹ Trần Trọng Khuê, viện Khoa học xã hội tại Tp. HCM và cô Nguyễn Thị Thanh Minh, Ủy ban dân số gia đình trẻ em tp.HCM, số lượng trẻ đường phố trung bình ước tính tại tp.HCM vào năm 2003 là khoảng 8.000 em. Tuy nhiên, con số này cũng còn biến đổi rất nhiều trong năm. Số lượng trẻ đường phố luôn luôn tăng cao nhất vào thời điểm mùa hè khi trẻ em không phải đến trường. Những trẻ sống trong các gia đình nông thôn khó khăn thường nhân dịp nghỉ hè lên thành phố làm thêm kiếm tiền phụ giúp gia đình. Các em bỏ nhà lên thành phố và tham gia vào việc bán hàng dạo hoặc nhặt rác. Thu nhập mà một trẻ như vậy có thể kiếm được một tháng có thể gấp 10 lần số tiền mà cha mẹ chúng ở nhà kiếm được khi làm nghề nông3. Hay nói cách khác, một trẻ lao động hè như vậy có thể kiếm được một khoản tiền tương đương với số tiền mà cả gia đình kiếm được trong vòng một năm. Vì vậy, trẻ thường sẵn sàng hy sinh kỳ nghỉ hè của mình để có được một khoản thu nhập tương đối dành cho gia đình. Đây là một cách lý giải rất dể hiểu cho việc số lượng trẻ đường phố tăng vọt vào thời điểm mùa hè tại các thành phố lớn. Trong những ngày lễ lớn như Ngày Quốc Khánh hoặc dịp Seagames 22, số lượng trẻ đường phố cũng thay đổi đáng kể. Để chuẩn bị cho những dịp này, công an thành phố thường xuyên đi thu gom những trẻ đường phố và người lang thang vô gia cư vào các trường trại. Trong suốt khoảng thời gian diễn ra các chiến dịch thu gom, nhiều trẻ đường phố đã lẩn trốn khỏi những khu vực kiếm sống hàng ngày4. Để đối phó lại các chiến dich 3 Những thông tin được thu thập trong cuộc hội thảo được VDF tổ chức tại Tp. HCM vào tháng 8 năm 2004. Tiến sỹ Minh cho biết một ví dụ về một trẻ đường phố quê ở Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi có mức thu nhập bình quân hàng tháng vào khoảng 100.000 đồng, nếu làm nghề bán vé số dạo ở tp. HCM thì thu nhập sẽ khoảng 300.000 đồng một tháng . 4 Những trẻ em bị bắt và thu gom trong các chiến dịch thu gom ở Hà Nội sẽ được gửi lên trại Ba Vì hoặc Đồng Dầu, những em lang thang ở Tp. HCM sẽ được gửi lên trường Thiếu niên 3 ở Huyện Gò Vấp. 8 thu gom này, trẻ đường phố hoặc là ăn mặc chỉnh tề hơn để tránh bị để ý hoặc tạm thời di chuyển sang các khu vực vùng biên để tránh bị thu gom. Chính vì vậy, nếu các cuộc điều tra bỏ qua các yếu tố này thì kết quả điều tra sẽ rất dễ gây ra những hiểu lầm cho người sử dụng. Để kiểm soát được sự di chuyển và thay đổi của trẻ đường phố, c
Luận văn liên quan