Đề tài Triết lý giáo dục Việt Nam

Tính đến năm học 2007-2008, cả nước có khoảng 1.069.100 nhà giáo (bao gồm: 171.900 giáo viên mầm non; 344.900 giáo viên tiểu học; 312.400 giáo viên trung học cơ sở; 136.600 giáo viên trung học phổ thông; 15.100 giáo viên các trung tâm giáo dục thường xuyên; 14.500 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 20.200 giáo viên các trường dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề và 53.500 giảng viên đại học, cao đẳng). Tình trạng thiếu giáo viên diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp học, cụ thể: - Đối với giáo dục mầm non: tỷ lệ bình quân trong nhóm nhà trẻ là 10 trẻ em/giáo viên (quy định là 8 trẻ em/giáo viên), trong nhóm mẫu giáo là 20,6 trẻ em/giáo viên (quy định là 20 trẻ em/giáo viên); - Đối với giáo dục tiểu học: tỷ lệ bình quân đạt 1,29 giáo viên/lớp, tuy vượt định mức 1,20 giáo viên/lớp dạy học 1 buổi/ngày, song so với yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày (định mức là 1,50 giáo viên/lớp) thì mới chỉ đáp ứng được 86% nhu cầu về số lượng giáo viên. - Đối với giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 2,01, song còn quá thấp (định mức là 2,25); - Đối với giáo dục đại học: khối cao đẳng có tỷ lệ bình quân 23,86 sinh viên/giảng viên; khối đại học có tỷ lệ bình quân 27,75 sinh viên/giảng viên, đều cao hơn mức 20 sinh viên/giảng viên. Vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở các trung tâm, thành phố, thị xã, thị trấn nhưng lại thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn), theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hoá, thiếu giáo viên dạy các môn đặc thù, tự chọn) và theo ngành nghề đào tạo.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2030 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Triết lý giáo dục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM I. Thực trạng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục 1. Đội ngũ nhà giáo a. Tính đến năm học 2007-2008, cả nước có khoảng 1.069.100 nhà giáo (bao gồm: 171.900 giáo viên mầm non; 344.900 giáo viên tiểu học; 312.400 giáo viên trung học cơ sở; 136.600 giáo viên trung học phổ thông; 15.100 giáo viên các trung tâm giáo dục thường xuyên; 14.500 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 20.200 giáo viên các trường dạy nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề và 53.500 giảng viên đại học, cao đẳng). Tình trạng thiếu giáo viên diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp học, cụ thể: - Đối với giáo dục mầm non: tỷ lệ bình quân trong nhóm nhà trẻ là 10 trẻ em/giáo viên (quy định là 8 trẻ em/giáo viên), trong nhóm mẫu giáo là 20,6 trẻ em/giáo viên (quy định là 20 trẻ em/giáo viên); - Đối với giáo dục tiểu học: tỷ lệ bình quân đạt 1,29 giáo viên/lớp, tuy vượt định mức 1,20 giáo viên/lớp dạy học 1 buổi/ngày, song so với yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày (định mức là 1,50 giáo viên/lớp) thì mới chỉ đáp ứng được 86% nhu cầu về số lượng giáo viên. - Đối với giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 2,01, song còn quá thấp (định mức là 2,25); - Đối với giáo dục đại học: khối cao đẳng có tỷ lệ bình quân 23,86 sinh viên/giảng viên; khối đại học có tỷ lệ bình quân 27,75 sinh viên/giảng viên, đều cao hơn mức 20 sinh viên/giảng viên. Vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở các trung tâm, thành phố, thị xã, thị trấn nhưng lại thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn), theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hoá, thiếu giáo viên dạy các môn đặc thù, tự chọn) và theo ngành nghề đào tạo. b. Chất lượng đội ngũ nhà giáo: - Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, cụ thể: giáo viên mầm non đạt 90%; giáo viên tiểu học đạt 97,8%; giáo viên trung học cơ sở đạt 98,6%; giáo viên trung học phổ thông đạt 97,5%; giáo viên trung cấp chuyên nghiệp đạt 94,66%; giáo viên dạy nghề đạt 58,88%; giáo viên cao đẳng nghề đạt 82,83%; giáo viên trung cấp nghề đạt 73,16% và giảng viên đại học, cao đẳng đạt 92,93%. Số chưa đạt chuẩn giảm dần hàng năm. Mặc dù số lượng nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo là rất cao, nhưng năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều nhà giáo còn hạn chế, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, vẫn còn có những giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là nhà giáo công tác ở miền núi, ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức. - Về nghiệp vụ sư phạm: phần lớn nhà giáo đều đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên (đặc biệt ở các cấp học cao và đối với giảng viên). Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, trình độ tin học và ngoại ngữ. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhà giáo gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên tiến, hạn chế khả năng nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. - Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt; hầu hết đều tận tuỵ với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số ít nhà giáo do chạy theo vật chất đơn thuần, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và học sinh đối với ngành giáo dục. Cần nghiêm túc, có biện pháp giáo dục, xử lý kịp thời, thậm chí đưa ra khỏi ngành những người vi phạm đạo đức, lối sống và chuẩn mực của người thầy. c. Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ nhà giáo còn nhiều khó khăn, bất cập: - Về chính sách phát triển giáo dục mầm non: biên chế giáo viên mầm non rất khó khăn, trong khi lương của giáo viên hợp đồng quá thấp, dẫn đến tình trạng nhiều nơi khó tuyển dụng giáo viên mầm non. - Phần lớn các địa phương chưa thực hiện việc phân cấp tuyển dụng. - Chính sách luân chuyển nhà giáo và nghĩa vụ làm việc trong ngành giáo dục sau tốt nghiệp đối với sinh viên sư phạm còn thiếu cơ chế, biện pháp khả thi để triển khai thực hiện có hiệu quả. - Công tác đánh giá phân loại nhà giáo đã có nhiều đổi mới, bước đầu phát huy tính tích cực, tạo động lực và khuyến khích nhà giáo phấn đấu vươn lên. Tuy nhiên, hạn chế trong công tác này là nhận thức và trách nhiệm của một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đầy đủ, còn né tránh, nể nang; chưa ban hành kịp thời các tiêu chí đánh giá, thiếu các tiêu chí cụ thể, định lượng nên việc đánh giá chưa thật chính xác, khách quan, chưa phản ánh đúng thực chất về đội ngũ. - Những năm qua, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với các bộ, ngành tập trung xây dựng và ban hành được một hệ thống văn bản chỉ đạo tương đối đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương và các cơ sở giáo dục thực hiện tốt chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo (như: chế độ chính sách đối với nhà giáo công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách miễn thu học phí đối với học sinh vào học ngành sư phạm.v.v...). Cùng với chính sách chung của Nhà nước, tùy vào điều kiện kinh tế của từng vùng, các sở GD&ĐT đã tích cực tham mưu với các cấp chính quyền để có những chính sách riêng hỗ trợ cho đội ngũ nhà giáo (như: chế độ hỗ trợ tiền lương cho giáo viên mầm non ngoài công lập; chế độ hỗ trợ cho giáo viên đi học tập nâng cao trình độ.v.v…). Tuy nhiên, chế độ chính sách cho đội ngũ nhà giáo hiện còn nhiều hạn chế, vướng mắc, như: + Nhiều quy định trong chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo đã ban hành từ lâu, không còn phù hợp song chậm được bổ sung, sửa đổi, như: chế độ cho giáo viên đi bồi dưỡng tập trung theo Quyết định số 291/CP ngày 30/12/1974 của Hội đồng Chính phủ; chế độ làm việc và định mức lao động của nhà giáo; Chế độ thanh toán tiền lương dạy thêm giờ và phụ cấp dạy lớp ghép; chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm và chế độ cấp bù học phí sư phạm.v.v... + Bất cập trong việc thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo, cụ thể như: chưa giải quyết triệt để bất hợp lý trong hệ thống thang, bảng lương, chế độ phụ cấp cho nhà giáo, chính sách tiền lương đối với giáo viên mầm non và chế độ đối với giáo viên hợp đồng; thu nhập của nhà giáo ở các trường công lập và ngoài công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần đông nhà giáo vẫn còn khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công tác, thậm chí ở một số thành phố lớn đã có hiện tượng giáo viên xin nghỉ việc, chuyển chỗ, làm nghề khác.v.v… 2. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục a. Tính đến năm học 2007-2008, cả nước có khoảng 120.000 cán bộ quản lý giáo dục (trong đó, giáo dục mầm non: 18%; giáo dục phổ thông: 65%; giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học: 6% và ở cơ quan quản lý giáo dục các cấp: 11%). b. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, song vẫn còn nhiều bất cập: - Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn trình độ đào tạo; tuy nhiên, khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Đa số chưa được đào tạo có hệ thống về công tác quản lý, trình độ và năng lực điều hành quản lý còn bất cập, tính chuyên nghiệp thấp, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên chất lượng, hiệu quả công tác còn nhiều hạn chế. - Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao (do hầu hết là những nhà giáo được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý), có kinh nghiệm trong công tác quản lý giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục có biểu hiện chạy theo những tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tích cực, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. c. Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cũng còn nhiều khó khăn, bất cập, như: chưa giải quyết thoả đáng chế độ chính sách đối với những nhà giáo được điều động sang làm công tác quản lý; thu nhập của cán bộ quản lý giáo dục ở các trường công lập và ngoài công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần đông cán bộ quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên nhiều người chưa thực sự yên tâm công tác. II. Những nội dung cần nghiên cứu khi xây dựng Luật Viên chức Theo dự báo, đến năm 2020 dân số nước ta khoảng 100 triệu người với khoảng 23,5 triệu học sinh và 4,5 triệu sinh viên. Việc tăng tự nhiên quy mô học sinh, sinh viên hàng năm; việc thực hiện học 2 buổi/ngày ở phổ thông và việc giảm tỷ lệ học sinh, sinh viên/lớp, tỷ lệ sinh viên/giảng viên đòi hỏi quy mô đội ngũ phải tăng trung bình 5%/năm, đến năm 2020 cần có 1,25 triệu nhà giáo; trong đó số giảng viên phải tăng gấp 4 lần hiện nay với ít nhất 25% có trình độ tiến sĩ (riêng các trường đại học, cao đẳng sư phạm yêu cầu 100% giảng viên có trình độ tiến sĩ). Để bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp chấn hưng nền giáo dục, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, việc xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần được thực hiện trên nền tảng pháp lý vững chắc, đó là các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao. Vì vậy, cần nghiên cứu để đưa vào nội dung của Luật Viên chức những vấn đề sau đây. 1. Thực hiện việc ”luật hoá” các quan điểm, chủ trương của Đảng về việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Cụ thể là: - Tôn vinh nhà giáo và nghề dạy học, nâng cao vị trí xã hội của nhà giáo. - Đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng các trường sư phạm để bảo đảm đủ số lượng nhà giáo ở mọi cấp học, trình độ đào tạo, các đối tượng đặc biệt trong xã hội. - Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. - Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. - Quản lý, sử dụng đãi ngộ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. 2. “Luật hóa” một số quy định đang được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật: - Về đối tượng điều chỉnh. + Các khái niệm “nhà giáo”, “giáo viên”, “giảng viên” đã được quy định tại Điều 70 của Luật Giáo dục; khái niệm “giáo viên dạy nghề” được quy định tại Điều 58 của Luật Dạy nghề. Song những người giảng dạy trong các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân chưa rõ là “giáo viên” hay “giảng viên”. + Khái niệm “cán bộ quản lý giáo dục” được sử dụng khá rộng rãi song chưa có quy định thống nhất để xác định đúng đắn đối tượng điều chỉnh trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách có liên quan. - Các chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần được luật hoá để bảo đảm giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành cao, bảo đảm điều chỉnh công bằng đối với tất cả đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở trường công lập và trường ngoài công lập; cụ thể: + Về quyền, trách nhiệm (đạo đức, pháp lý), nghĩa vụ của nhà giáo và chế độ làm việc của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp học. + Về các chức danh nhà giáo, hệ thống ngạch viên chức làm nhiệm vụ giảng dạy (mỗi cấp học đều có đủ các ngạch viên - chính - cao cấp), định mức biên chế và cơ cấu nhà giáo ở các loại hình cơ sở giáo dục thuộc các cấp học. + Về tiêu chuẩn các chức danh đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của từng loại hình cơ sở giáo dục. + Về chuẩn nghề nghiệp nhà giáo từng cấp học và việc đánh giá, xếp loại, kiểm định chất lượng, sàng lọc và tinh giản biên chế đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. + Về các chính sách, chế độ trong tuyển dụng (xoá bỏ phân biệt “giáo viên trong biên chế” và “giáo viên hợp đồng”), điều động, luân chuyển, sử dụng và quản lý đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh cán bộ quản lý giáo dục; các chính sách, chế độ bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội), tiền thưởng, phúc lợi (phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội, trợ cấp, nhà ở công vụ...) và các khoản thu nhập chính đáng khác (ngoài tiền lương) của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. + Về môi trường công tác và các điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả làm việc của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (nhất là đối với các chức danh giáo sư, phó giáo sư, chuyên gia, giáo viên/giảng viên cao cấp/có học vị tiến sĩ...). + Về tiền lương và thang, bảng lương nhà giáo (bảo đảm cho tiền lương nhà giáo, thực sự trở thành một động lực trong công việc của nhà giáo); chế độ phụ cấp (phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thâm niên...) và bảo lưu chế độ cho nhà giáo khi được điều động công tác về các cơ quan quản lý giáo dục. + Về các chính sách, chế độ khác (như chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các trường chuyên biệt, ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách đối với nhà giáo giảng dạy các chuyên ngành đào tạo, bộ môn đặc thù; chính sách kéo dài thời gian làm việc trước khi nghỉ hưu đối với các nhà giáo cốt cán, có học hàm/học vị cao; chính sách thu hút nhà giáo là người Việt Nam ở nước ngoài về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học - chuyển giao công nghệ...). + Về phân cấp quản lý đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; chương trình, phương thức và hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (tăng cường hơn nữa quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục; tập trung đầu mối, tăng cường chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý giáo dục các cấp; xử lý hài hoà mối quan hệ giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ). + Về đẩy mạnh xã hội hoá, hợp tác quốc tế trong phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; quỹ khuyến khích phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. + Về khen thưởng, xử lý vi phạm, khiếu tố và giải quyết yếu tố liên quan đến đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục./. III. Triết lý giáo dục Việt Nam Triết lý giáo dục được định nghĩa một cách đơn giản, đó là cơ sở triết học của một nền giáo dục của một nước. Cụ thể, đó là quan điểm về vai trò, vị trí của giáo dục, đường lối, phương hướng phát triển, mục tiêu, nguyên lý giáo dục; là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục. Vào thời điểm này, một người lạc quan nhất cũng có thể nhận thấy rằng, nền giáo dục Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Sự nghiêm trọng đó không chỉ thể hiện ở những hiện tượng tiêu cực mà quan trọng hơn là ở việc nhận ra sự thiếu thích ứng với những biến đổi to lớn của nền kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng được với những đòi hỏi ngày càng cao của thế giới. Loài người đang chứng kiến xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Xu thế này là tất yếu bởi nó bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển của lực lượng sản xuất, khiến cho phân công lao động ngày càng mở rộng trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đã phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên mọi lĩnh vực và ở tất cả các quốc gia. Do vậy, dù muốn hay không, tất cả các quốc gia đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện ngày nay, chúng ta không thể không tham gia quá trình toàn cầu hóa. Điều đó đồng nghĩa là chúng ta sẽ chấp nhận tham gia cạnh tranh toàn cầu. Và, nếu không muốn bị tụt hậu hay thất bại trong cuộc hội nhập này thì không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các quốc gia tham gia hội nhập đều phải chuẩn bị cho mình những điều kiện tiên quyết. Đó là: đào tạo con người có học thức, có phong cách tư duy và làm việc quốc tế để đảm bảo cho bước đầu hội nhập thành công. Trong tiến trình đổi mới đất nước, triết lý giáo dục Việt Nam được thể hiện thông qua các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục. Các quan điểm này xác lập niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với: vai trò của giáo dục với tư cách là quốc sách hàng đầu; việc đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; phương hướng giáo dục phải đi trước và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội; thành công của sự nghiệp giáo dục với tư cách là sự nghiệp của nhà nước và toàn dân. Triết lý giáo dục Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với các giai đoạn phát triển giáo dục, đặc biệt là trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII), đến Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII), Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX), Đại hội Đảng X gần đây. Có thể thấy, trong suốt lịch sử hơn 60 năm của giáo dục cách mạng Việt Nam, lúc nào cũng hiện hữu một triết lý phát triển. Xét trên phương diện triết lý giáo dục, để xác lập niềm tin trong bối cảnh mới, cần phải tư duy lại một cách nhất quán mọi vấn đề cơ bản của giáo dục, kể cả những vấn đề được coi là bất biến. “ Dạy thật tốt để mọi người Việt Nam học tốt, làm tốt và sống tốt” "Về phía người học, ngoài việc lĩnh hội tri thức, còn phải biết vận dụng tri thức để tạo ra việc làm và làm việc, đảm bảo chất lượng hiệu quả hành nghề của bản thân và đáp ứng được các yêu cầu sức lao động của xã hội. Bên cạnh đó, mỗi người VN cần phải biết chung sống với người khác, thực hiện tốt nghĩa vụ bản thân, biết bảo vệ cái riêng và tôn trọng cái chung, vì lợi ích hôm nay và tương lai" Nhà nước - nhà trường - nhà giáo đều cần triết lý giáo dục riêng Ở một số các nước phương tây, gần như bắt buộc mỗi giáo viên phải xây dựng riêng cho mình một triết lý giáo dục cá nhân được trình bày thành văn bản trong hồ sơ tuyển dụng và được định kỳ cập nhật, bổ sung trong quá trình dạy học. Trong đó, giáo viên trình bày một cách khúc chiết, ngắn gọn niềm tin của mình vào một số quan điểm triết học giáo dục, từ đó đề cập cách nhìn riêng của mình về việc dạy, việc học, các mục tiêu mong muốn và những việc cần làm, những đóng góp có thể. Nhà trường cũng phải xây dựng cho mình một triết lý giáo dục khẳng định niềm tin cụ thể vào nhà trường, nhà giáo, người học, cộng đồng, chỉ ra mục tiêu mong muốn mà nhà trường đem lại, vạch ra các việc phải làm. Nó như một tuyên bố về sứ mệnh, tầm nhìn hoặc văn bản chiến lược. Đây cũng là một trong các yếu tố để kiểm định chất lượng trường học. Triết lý giáo dục cũng được hiểu tương tự như ở cấp độ trường học, nhưng mở rộng hơn. Đó cũng là các tuyên bố về mục tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn, chiến lược của 1 quốc gia về những vấn đề cơ bản của giáo dục. Khi giáo viên tham dự phỏng vấn tuyển việc, điều đầu tiên là phải thể hiện được tuyên ngôn về triết lý giáo dục của mình. Có người rất sáng tạo và dùng thơ để nói về điều này, lại cũng có giáo viên thể hiện triết lý của mình thông qua hình thức đặt câu hỏi và đưa ra câu trả lời. Triết lý giáo dục của giáo viên không phải là bất biến mà qua thời gian cần được xem xét lại cho phù hợp với giai đoạn phát triển nghề nghiệp cũng như môi trường công tác. Cần có những công ty tư vấn đưa ra lời khuyên cho những ai muốn làm rõ và thể hiện được tuyên ngôn triết lý giáo dục của cá nhân mình. Một học giả đã từng thừa nhận rằng chính những giáo viên bình thường, chứ không phải các triết gia ngồi trong tháp ngà khoa học, đã đưa ra những triết lý giáo dục hết sức chặt chẽ và sâu sắc làm tác động và thay đổi quan niệm của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức, sự tác động của công nghệ đã làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Cùng với mạng viễn thông toàn cầu cho phép trao đổi thông tin một cách nhanh chóng,việc tiếp cận của mỗi người với tri thức nhân loại rất tiện lợi và với khối lượng lớn. Để thích ứng với điều đó, giáo dục phải chuyển từ việc coi trọng truyền thụ tri thức sang việc giáo dục cho mọi người khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác với nhau. Làm được điều đó, giáo dục mới cung cấp cho xã hội hiện đại những người lao động mới phù hợp. * Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục trong bối cảnh của cuộc cá
Luận văn liên quan