Đề tài Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ khi gặp chủ nghĩa Lênin đến năm 1930

Đến thế kỉ XIX,chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu và Bắc Mỹ phát triển rất nhanh,uy hiếp ngày càng mạnh các nước chậm phát triển. Châu Phi và châu Á trở thành đối tượng xâm lược chủ yếu. Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Cuộc chạy đua tìm kiếm thị trường mới, xâm chiếm thuộc địa, phân chia thế giới giữa các nước tư bản lớn ngày càng gay gắt, quyết liệt. Các nước phát triển đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của các nước đế quốc. Hệ thống thuộc địa trở thành một trong những cơ sở quan trọng nhất cho sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc. Sự thống trị tàn bạo của chúng làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc dẫn đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, phụ thuộc.

docx29 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3035 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ khi gặp chủ nghĩa Lênin đến năm 1930, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Hoàn cảnh lịch sử sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: I. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 1) Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó: Đến thế kỉ XIX,chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu và Bắc Mỹ phát triển rất nhanh,uy hiếp ngày càng mạnh các nước chậm phát triển. Châu Phi và châu Á trở thành đối tượng xâm lược chủ yếu. Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Cuộc chạy đua tìm kiếm thị trường mới, xâm chiếm thuộc địa, phân chia thế giới giữa các nước tư bản lớn ngày càng gay gắt, quyết liệt. Các nước phát triển đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của các nước đế quốc. Hệ thống thuộc địa trở thành một trong những cơ sở quan trọng nhất cho sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc. Sự thống trị tàn bạo của chúng làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc dẫn đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. 2) Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin: Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của Đảng Cộng Sản,được truyền bá rộng rãi đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình,giai cấp công nhân phải lập ra Đảng Cộng Sản. Sự ra đời Đảng Cộng Sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp công nhân. Kể từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. 3) Tác động của Cách mạng tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản Cuộc cách mạng Nga năm 1917 (hay còn gọi là Cách mạng Tháng Mười) giành thắng lợi mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, toàn thế giới, mở đường cho thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Thắng lợi cũng làm lung lay chủ nghĩa cải lương trong Quốc tế II, dẫn tới việc ra đời Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời 3-1919, là đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức trên thế giới, đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng nhân dân, dân tộc đang chịu chế độ thuộc địa; Với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng An Nam muốn thành công tất phải nhờ Quốc tế thứ ba. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản là sự kiện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tư tưởng, chính trị và con đường Cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. II. Hoàn cảnh trong nước 1) Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp Từ năm 1858 thực dân Ph and áp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta và tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Về kinh tế, để thu được lợi nhuận tối đa ở Việt Nam, đế quốc Pháp thi hành chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động:duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đế quốc Pháp hầu như không mở mang công nghiệp nặng, mà còn kiềm hãm không cho phát triển những ngành công nghiệp nhẹ. Để khai thác nhiều tài nguyên, chúng buộc phải xây dựng một số cơ sở vật chất kĩ thuật mới trong các ngành như giao thông vận tải, xây dựng, mỏ, đồn điền. Nhưng tất cả các ngành này không được phép cạnh tranh mà phụ thuộc vào nền công nghiệp của “chính quốc”. Toàn quyền Đông Dương là Pôn Dume có viết : “Công nghiệp chính quốc cần bổ sung chứ không phải để phá sản bởi công nghiệp thuộc địa”. Thực hiện chính sách trên, thực dân Pháp thực hành thủ đoạn độc quyền kinh tế : độc quyền kinh doanh một số ngành công nghiệp nặng, phương tiện giao thông vận tải, độc quyền xuất nhập khẩu, độc quyền muối, rượu. Mặt khác, chúng coi trọng thủ đoạn bóc lột phi kinh tế, đó là chế độ thuế khóa nặng nề và hết sức vô lí : thuế thân, thuế ruộng, thuế chợ, thuế nộp cho ngân sách Đông Dương, cho ngân sách xứ… Chính sách kinh tế trên của Pháp đã tước hết khả năng phát triển độc lập của nền kinh tế Việt Nam. Rốt cuộc, nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng lạc hậu, hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp. Về chính trị, để đảm bảo mục tiêu kinh tế, Pháp dùng chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp bằng bộ máy công chức chuyên nghiệp người Pháp, thâu tóm mọi quyền hành. Cùng với đó là chính sách chia để trị. Chúng chia nước ta thành ba kỳ với ba hình thức cai trị khác nhau nhằm gây chia rẽ dân tộc. Chúng gây hằn thù giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số, giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhân dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc viết “nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung môt dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói đã bị chia năm xẻ bảy”. Chúng bóp nghẹt quyền tự chủ nhân dân, đàn áp dã man mọi hoạt động yêu nước. Về văn hóa xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách ngu dân, truyền bá văn hóa nô dịch, phản động, đồi trụy. Chúng phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan để mê hoặc nhân dân ta. Chúng tước hết quyền sống của con người, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nói tóm lại, chính sách của chúng “làm ngu dân để dễ trị”. Dưới chính sách của thực dân Pháp, cùng với những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc: giai cấp địa chủ , giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước, và ở mức độ khác nhau đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu: thứ nhất là phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; thứ hai là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. 2) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ và mang một số đặc điểm như sau: Các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi nổi, và đạt được kết quả ở những mức độ khác nhau; Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau; Phương thức và biện pháp tiến hành khác nhau nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại; Một số tổ chức theo lập trường quốc gia tư sản ra đời đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra. Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khiến cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, một giai cấp đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công. Sự phát triển của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là cơ sở xã hội thuận lợi cho sự tiếp biến con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam và là một trong những nhân tố đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản. 3) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng nhiều biện pháp, con đường. Những quan điểm cách mạng này đã tác động thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo con đường cách mạng vô sản. Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản: phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản; phong trào yêu nước của nông dân phát triển mạnh mẽ, diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Điều đặc biệt trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nhân, nông dân có tính chất độc lập rõ rệt chứ không phải chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa. Trong năm 1929, Việt Nam xuất hiện ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Ba tổ chức cộng sản đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng lại hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hướng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn khiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam. Kết luận: Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã dẫn đến những thay đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và lực lượng của cách mạng Việt Nam. Bị đế quốc Pháp xâm lược, xã hôi Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản là:mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. And, a home, home, Hoàn Đối tượng cần đánh đổ của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến. Lực lượng của cách mạng Việt Nam là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Độc lập tự do là yêu cầu căn bản, là nguyện vọng thiết tha của toàn nhân dân. Vì vậy, các cuộc đấu tranh của quần chúng liên tiếp nổ ra. Ở mỗi thời kì lịch sử nhất định, các cuộc đấu tranh của quấn chúng gắn với sự lãnh đạo của một lực lượng đại biểu cho một giai cấp nhất định. Nhưng các cuộc vận động yêu nước đó chưa giành thắng lợi vì chưa vạch ra con đường cứu nước đúng đắn, chưa đáp ứng được nhu cầu độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân ta. Đây chính là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước. Thực chất là cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của một giai câp tiên tiến. B. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: I. Điều kiện lịch sử dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam: 1) Điều kiện: Từ nửa đầu thế kỷ 19, các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây phần lớn đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp, nền kinh tế có những bước phát triển lớn mạnh, yêu cầu đòi hỏi về thị trường tiêu thụ và cung cấp nguồn nguyên liệu hàng hoá tăng cao, dẫn đến việc đi xâm chiếm các nước kém phát triển. Tại đây, chúng thực hiện chế độ áp bức bóc lột hết sức hà khắc, gây nên mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và các nước đế quốc ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỷ 19, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Sau khi thực hiện việc xâm lược và bình định vũ trang, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, bóc lột nặng nề về kinh tế, nhằm đem lại lợi ích tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp. Dưới chế độ đó, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, đời sống của nhân dân bị cùng cực hoá, làm cho mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng người dân với bọn phong kiến cũ không mất đi mà còn xuất hiện thêm mâu thuẫn mới toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp. Lịch sử đòi hỏi cần phải giải quyết những mâu thuẫn đó. Vào đầu thế kỷ 20, phong trào dân tộc ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện, hoạt động theo khuynh hướng dân chủ tư sản mang màu sắc và mức độ khác nhau như các phong trào Đông Du do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo, hay như phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào Duy Tân do cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo. Đồng thời nhiều tổ chức chính trị của giai cấp tiểu tư sản trí thức cũng được thành lập. Tất cả đều hoạt động theo một mục đích thống nhất đem lại độc lập cho dân tộc tuy theo các đường lối chủ trương khác nhau. Tuy các phong trào đều thất bại, nhưng sự xuất hiện của các tổ chức này là sự thể hiện tinh thần yêu nước của dân tộc ta đã có từ ngàn đời nay. Song song với sự phát triển của các phong trào yêu nước và dân chủ theo khuynh hướng tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự bóc lột của bọn chủ thực dân lần lượt diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình là biểu tình, bãi công. Từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lực lượng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, các phong trào đấu tranh chống lại sự bóc lột của bọn thống trị nổ ra ở khắp nơi từ Sài Gòn - Chợ Lớn cho đến Hà Nội, Nam Định. Trong các cuộc đấu tranh của mình, giai cấp công nhân đã nêu lên các yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Các cuộc đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức hơn. Song nhìn chung, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn còn mang tính tự phát, chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào dân tộc, trong khi đó phong trào dân tộc Việt Nam vẫn còn đang bị bế tắc, chưa tìm được con đường đi đến thắng lợi. Phong trào yêu nước Việt Nam đứng trước ngã ba đường. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến bị gãy nát. Ngọn cờ của giai cấp tư sản vừa giương lên đã bị đánh đổ. Đất nước đang đòi hỏi bức thiết phải có một ngọn cờ cứu nước phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế của thời đại. Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh với tên gọi là Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc để ra đi tìm đường cứu nước. Trên con đường bôn ba khắp năm châu bốn bể, người đã nghiên cứu lí luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như các cuộc cách mạng của Pháp và của Mỹ. Theo người cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ hay các cuộc cách mạng tư sản là các cuộc cách mạng không đến nơi, không giải phóng nhân dân lao động. “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 10, trang 241). Có thể nói Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin được xem là một bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây chính là cơ sở, nền tảng cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, con người vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam, người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người luôn luôn sống mãi trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam và biết bao người yêu hoà bình trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung sau đó đổi tên thành Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà Nho, nguồn gốc nông dân. Người sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chính vì thế trong tâm trí người thanh niên xứ Nghệ luôn luôn trăn trở một điều đó là con đường giải phóng dân tộc cho đất nước mình, giải phóng con người mình khỏi ách áp bức, bóc lột. Người đã được chứng kiến những tiền bối của mình cứu nước giải phóng dân tộc như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…vv, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh của họ đều thất bại và bị nhấn chìm trong biển máu. Từ những yêu cầu bức thiết đó đã thôi thúc chàng trai trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành cần tìm ra một hướng đi mới cho cách mạng Việt Nam và hướng đi đó sẽ không giống con đường mà các bậc tiền bối của mình đã đi trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành từ bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam, không giống như các bậc tiền bối của mình đó là đi cầu ngoại viện, mục đích ra đi của Người là xác định xem bên ngoài người ta làm thế nào để về giúp đồng bào mình giải phóng dân tộc. Sau nhiều năm bôn ba, Người đã tới các các quốc gia như Pháp, Mỹ, Anh và các nước ở châu Phi, Mỹ La tinh để học tập và hoạt động chính trị. Tháng 6 năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và gửi bản yêu sách tám điểm tới hội nghị của các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Véc xây (Pháp). Đây chính là đòn tấn công đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đánh thẳng vào đế quốc Pháp và cũng chính là sự kiện gây xáo động trong thế giới thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc còn tự tay viết yêu sách bằng hai thứ tiếng, một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể thức văn vần nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản bằng chữ Hán với nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư. Tuy bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được hội nghị xem xét nhưng chính nó đã có tiếng vang lớn và tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam đang sống trong và ngoài nước. Một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề quốc gia, chính trị của nước mình ra trường quốc tế, đòi cho Việt  Nam có những quyền cơ bản, chính đáng và thiết thực nhất. đây chính là niềm vui, dấu hiệu mới cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc. 2) Tính tất yếu khách quan của việc thành lập Đảng: *Về tư tưởng: truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam Đối với phong trào công nhân: cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới- thời đại CNXH, chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành kim chỉ nam cho phong trào giải phóng dân tộc. Xã hội Việt Nam đòi hỏi phải có bộ tham mưu của giai cấp mình lãnh đạo khi đứng trước tình hình sôi động của chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam dù sinh sau đẻ muôn so với giai cấp công nhân thế giới nhưng vẫn mang trong mình những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân hiện đại: đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, có ý thức tổ chức, kỉ luật, có tính đấu tranh cách mạng triệt để và tinh thần quốc tế cao. Tóm lại, đây là yếu tố thuân lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân. Đối với phong trào yêu nước: thực chất là cuộc đấu tranh của nông dân. Từ sau cách mạng Tháng Mười chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường chủ nghĩa vô sản. Phong trào yêu nước ph
Luận văn liên quan