Đề tài Vai trò của Liên hợp quốc trong hoạt động duy trì hòa bình và an ninh quốc tế

Trong lịch sử loài người, hòa bình luôn là nguyện vọng tha thiết và chính đáng của quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã gây ra quá nhiều mất mát cho nhân loại. Để tránh lặp lại một cuộc chiến thế giới mới đồng thời đẩy lùi chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang cũng như những mâu thuẫn quốc gia, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa cực đoan hồi giáo đang xảy ra hàng ngày, đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh thế giới, các quốc gia phải phát huy tối đa khả năng của chính mình đồng thời không ngừng thúc đẩy sự hợp tác với nhau không chỉ trong khu vực mà trên phạm vi toàn cầu để củng cố hòa bình, an ninh quốc tế, đặc biệt là việc tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc. Tại Hội nghị cấp cao Thiên niên kỷ năm 2000 và Hội nghị cấp cao năm 2005 kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Liên hợp quốc (LHQ) được tổ chức tại Trụ sở LHQ ở New York, các vị lãnh đạo các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của LHQ, coi tổ chức toàn cầu này là nền tảng không thể thiếu cho một thế giới hòa bình, thịnh vượng và công bằng hơn. Từ 51 thành viên ban đầu, hiện nay Liên hợp quốc là một trong những tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất với 192 thành viên. Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ sở toàn diện cho hòa bình, các quốc gia thành viên đề ra mục đích hàng đầu của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đồng thời xác định những mục đích quan trọng khác cho các hoạt động của LHQ là tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và bảo đảm quyền con người. Các quốc gia cũng trao cho LHQ vai trò là trung tâm điều hòa các hành động của các dân tộc hướng theo những mục đích đó. Cùng với các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc là một bộ máy gồm sáu cơ quan chính chịu trách nhiệm về các lĩnh vực khác nhau, trong đó, Hội đồng Bảo an và và Đại hội đồng Liên hợp quốc là những cơ quan được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Trong bài viết này, chúng em xin trình bày những vấn đề cơ bản về vai trò của Liên hợp quốc trong hoạt động duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của Liên hợp quốc trong hoạt động duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử loài người, hòa bình luôn là nguyện vọng tha thiết và chính đáng của quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã gây ra quá nhiều mất mát cho nhân loại. Để tránh lặp lại một cuộc chiến thế giới mới đồng thời đẩy lùi chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang cũng như những mâu thuẫn quốc gia, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa cực đoan hồi giáo đang xảy ra hàng ngày, đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh thế giới, các quốc gia phải phát huy tối đa khả năng của chính mình đồng thời không ngừng thúc đẩy sự hợp tác với nhau không chỉ trong khu vực mà trên phạm vi toàn cầu để củng cố hòa bình, an ninh quốc tế, đặc biệt là việc tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc. Tại Hội nghị cấp cao Thiên niên kỷ năm 2000 và Hội nghị cấp cao năm 2005 kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Liên hợp quốc (LHQ) được tổ chức tại Trụ sở LHQ ở New York, các vị lãnh đạo các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của LHQ, coi tổ chức toàn cầu này là nền tảng không thể thiếu cho một thế giới hòa bình, thịnh vượng và công bằng hơn. Từ 51 thành viên ban đầu, hiện nay Liên hợp quốc là một trong những tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất với 192 thành viên. Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ sở toàn diện cho hòa bình, các quốc gia thành viên đề ra mục đích hàng đầu của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đồng thời xác định những mục đích quan trọng khác cho các hoạt động của LHQ là tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và bảo đảm quyền con người. Các quốc gia cũng trao cho LHQ vai trò là trung tâm điều hòa các hành động của các dân tộc hướng theo những mục đích đó. Cùng với các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc là một bộ máy gồm sáu cơ quan chính chịu trách nhiệm về các lĩnh vực khác nhau, trong đó, Hội đồng Bảo an và và Đại hội đồng Liên hợp quốc là những cơ quan được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Trong bài viết này, chúng em xin trình bày những vấn đề cơ bản về vai trò của Liên hợp quốc trong hoạt động duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. NỘI DUNG A – Khái quát về Liên hợp quốc. Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế tuyên bố hỗ trợ sự cộng tác của các quốc gia thành viên trong các lĩnh vực luật pháp quốc tế, an ninh quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội và nhân quyền. Liên hợp quốc được thành lập trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc ngày 24/10/1945 để thay thế Hội Quốc Liên với mục đích ban đầu là chấm dứt chiến tranh giữa các quốc gia, gìn giữ hoà bình và thúc đẩy đối thoại. Từ 51 thành viên ban đầu, đến nay, Liên hợp quốc đã có 192 thành viên hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng của quan hệ quốc tế được ghi nhận cụ thể trong các văn bản của Liên hợp quốc, đặc biệt là Tuyên bố năm 1970. 1. Tôn chỉ, mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc. Theo Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc, tổ chức này theo đuổi những mục đích sau: - Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; - Phát triển những quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, dân tộc tự quyết; - Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế - Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc nhằm đạt được những mục đích nói trên. Liên hợp quốc hoạt động trên nguyên tắc nền tảng của quan hệ quốc tế, theo điều 2 Hiên chương Liên hợp quốc như: - Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia thành viên; - Nguyên tắc các thành viên của Liên hợp quốc phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ theo quy định của Hiến chương; - Nguyên tắc các thành viên Liên hợp quốc phải giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình - Nguyên tắc các thành viên Liên hợp quốc phải từ bỏ đe dọa dùng vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế (…) 2. Các cơ quan chính. Tổ chức này được chia thành 6 cơ quan chính, bao gồm: - Đại hội đồng, - Hội đồng bảo an, - Hội đồng kinh tế và xã hội, - Hội đồng quản thác, - Toà án quốc tế - Ban thư ký. Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên hợp quốc là Tổng thư ký, đương nhiệm là Ban Ky-moon người Hàn Quốc. B - Vai trò của LHQ trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Vai trò duy trì hòa bình và an ninh quốc tế của LHQ được thể hiện chủ yếu thông qua hoạt động duy trì hòa bình và an ninh quốc tế của Đại hội đồng và Hội đồng bảo an, ngoài ra còn có các cơ quan khác. I, Vai trò của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Đại hội đồng Liên hợp quốc là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Được thành lập bởi các quốc gia thành viên, Đại hội đồng triệu tập các kỳ họp thường niên dưới quyền của vị chủ tịch được bầu chọn trong vòng các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên. Là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có đại diện tất cả các thành viên, Đại hội đồng có chức năng của một diễn đàn để các thành viên đề đạt sáng kiến trong những vấn đề về hoà bình, tiến bộ kinh tế và nhân quyền. Ngoài ra, Đại hội đồng cũng có thể đề xuất các cuộc nghiên cứu, đưa ra những lời khuyên, cổ xuý cho nhân quyền, soạn thảo công pháp quốc tế và xúc tiến những chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội và giáo dục. Trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, Đại hội đồng có vai trò khá quan trọng, hoạch định những đường lối chung cho việc thực hiện đảm bảo hoà bình và an ninh thế giới. Nhiệm vụ duy trì hoà bình và an ninh quốc tế của Đại hội đồng đã được ghi nhận rất rõ tại Điều 11 Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó, Đại hội đồng Liên hợp quốc có thể xem xét những nguyên tắc hợp tác chung về sự hợp tác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc giải trừ quân bị, hạn chế vũ trang và đưa ra những kiến nghị cho các thành viên Liên hợp quốc hay Hội đồng bảo an. Đại hội đồng có thể thảo luận mọi vấn đề liên quan đến việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế do bất kỳ thành viên nào của Liên hợp quốc, hoặc do Hội đồng bảo an hay bất cứ quốc gia nào không phải là thành viên của Liên hợp quốc đưa ra trước Đại hội đồng. Nếu mọi vấn đề thuộc loại này cần phải có một hành động thì Đại hội đồng chuyển lại cho Hội đồng bảo an trước hoặc sau khi thảo luận. Mới đây, ngày 23/9/2009, trong ngày họp đầu tiên của Đại hội đồng Liên hợp quốc, các cường quốc đã cảnh báo Iran và Bắc Triều Tiên về hậu quả của cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân. Ngày 24/9/2009, tại New York, dưới sự chủ toạ của Tổng thống Mỹ Barack Obama, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã họp thượng đỉnh về vấn đề không phổ biến hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân. Trong khuôn khổ cuộc họp này, Hội đồng bảo an đã thông qua nghị quyết về một thế giới không có hạt nhân. Ngoài ra, Đại hội đồng cũng có thể lưu ý Hội đồng bảo an về những tình thế có khả năng làm nguy hại cho hoà bình và an ninh quốc tế. Trong hơn 50 năm qua, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nhiều nghị quyết và tuyên bố nhằm nâng cao hiệu quả của mình trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Các nghị quyết và tuyên bố quan trọng nhất trong lĩnh vực này là: Tuyên bố năm 1970 về tăng cường an ninh quốc tế; Nghị quyết 3314 năm 1974 về định nghĩa xâm lược; Tuyên bố năm 1988 về ngăn ngừa và loại trừ tranh chấp và tình thế có thể đe doạ hoà bình, an ninh quốc tế và vai trò của Liên hợp quốc trong lĩnh vực này… II, Vai trò của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong việc duy trì hoà bình và an ninh thế giới. Là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đồng bảo an được thành lập nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Trên cơ sở của Điều 24 Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng bảo an được các thành viên của Liên hợp quốc trao cho “trách nhiệm chính trong sự nghiệp duy trì hoà bình và an ninh quốc tế”. Có thể nói, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là cơ quan giữ vai trò chủ đạo trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nếu Đại hội đồng Liên hợp quốc xem xét những nguyên tắc chung về duy trì hoà bình và an ninh quốc tế thì Hội đồng bảo an lại đảm nhiệm việc triển khai cụ thể các hoạt động nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Hội đồng bảo an có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, Hội đồng bảo an cũng có quyền sử dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế nhằm loại trừ các mối đe dọa, phá hoại hòa bình hoặc các hành vi xâm lược. Trong khi thực thi chức trách của mình, Hội đồng bảo an hoạt động với tư cách thay mặt cho tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc. Vai trò của Hội đồng bảo an nhằm thực hiện chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế được thể hiện qua việc: 1. Vai trò của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong việc tham gia giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn, phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia khi quan hệ hợp tác giữa các quốc gia ngày càng được mở rộng. Đó thường là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm cụ thể trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu, hay đòi hỏi cụ thể không thống nhất được. Sự trái ngược nhau về quan điểm và quyền lợi đã đưa đến việc không thoả thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, từ đó làm nảy sinh xung đột, mâu thuẫn. Hiến chương Liên hợp quốc đã trao quyền cho các quốc gia tự giải quyết các tranh chấp (Điều 33) nhằm đảm bảo một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế: nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, vai trò tham gia giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế của Hội đồng bảo an cũng đã được ghi nhận trong Chương VI Hiến chương Liên hợp quốc. Theo Điều 34 Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng bảo an có quyền điều tra bất cứ tranh chấp hay tình thế nào mà có thể dẫn tới bất hoà hoặc gây ra tranh chấp giữa các quốc gia, xác định xem tranh chấp ấy hoặc tình thế ấy nếu kéo dài có thể đe dọa đến việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế không. Như vậy, vai trò của Hội đồng bảo an trong quá trình này chỉ dừng lại ở việc xác định mức độ ảnh hưởng của tranh chấp đối với hòa bình và an ninh quốc tế, kêu gọi các bên áp dụng các biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết tranh chấp. Nếu thấy cần thiết, Hội đồng bảo an có chức năng yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hoà bình (Điều 33). Ví dụ: Tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an về tình hình Cộng hòa Sát, xét thấy việc giao tranh bùng phát tại Sát trong những ngày qua sau khi phiến quân phát động các cuộc tiến công nhằm vào lực lượng chính phủ có ảnh hưởng tới hòa bình an ninh quốc tế đồng thời nhận thức rõ quan hệ giữa Sát và Xuđăng đối với tình hình ở tiểu khu vực có ý nghĩa khá quan trọng, Hội đồng Bảo an đã nhất trí thông qua tuyên bố lên án cuộc tấn công của phiến quân, kêu gọi các nước trong khu vực nghiêm chỉnh tuân thủ Hiệp định Đaca và các hiệp định liên quan, khuyến khích đối thoại chính trị tại Sát.. Khi các bên tranh chấp không giải quyết vụ tranh chấp này bằng phương pháp hoà bình thì các bên đương sự đó sẽ đưa vụ tranh chấp ấy ra Hội đồng bảo an và lúc này vai trò của Hội đồng bảo an được nâng lên rất nhiều. Hội đồng bảo an có quyền áp dụng bất kì thủ tục hoặc phương thức giải quyết tranh chấp nào mà Hội đồng bảo an cho là hợp lý (Điều 37). Như vậy, tuy rằng Liên hợp quốc trao quyền tự giải quyết hoà bình cho các quốc gia, nhưng Hội đồng bảo an cũng có đóng góp vào việc thúc đẩy và định hướng, kiến nghị các điều kiện giải quyết tranh chấp giữa các bên nhằm đảm bảo hoà bình và an ninh quốc tế. Hội đồng có thể "đề xuất những thủ tục hoặc phương pháp điều chỉnh" nếu Hội đồng xét thấy tình huống có thể gây nguy hại cho hoà bình và an ninh quốc tế. Những đề xuất này có tính ràng buộc đối với các thành viên Liên Hiệp Quốc. Có thể thấy, đóng góp lớn nhất của LHQ là đã góp phần ngăn ngừa không để xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới mới trong 62 năm qua. Một số cuộc khủng hoảng quốc tế đã được giải quyết với sự trung gian hòa giải của Liên hợp quốc. Theo thống kê của LHQ, tổ chức này đã hỗ trợ các cuộc thương lượng đưa đến giải pháp hòa bình cho hơn 170 cuộc xung đột ở các khu vực, có thể kể đến các xung đột tại El Salvador, Guatemala, Namibia, Cambodia, Mozambique, Afghanistan, Sierra Leone, Burundi và xung đột phía Bắc NamSudan. 2. Vai trò của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong trường hợp có hành vi đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế hoặc có hành vi xâm lược: Vai trò của Hội đồng bảo an trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế càng trở nên quan trọng trong trường hợp có hành vi đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế hoặc có hành vi xâm lược xảy ra. Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan của Liên hợp quốc có thẩm quyền và nhiệm vụ phải hành động trong những trường hợp có sự đe dọa, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược. Vai trò của Hội đồng bảo an được ghi nhận tại Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc. Theo Điều 39 Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng bảo an có trách nhiệm trước tiên là xác định thực tại mọi tình hình xem liệu tình hình cụ thể nào đó có đe doạ hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc là hành vi xâm lược hay không; sau đó Hội đồng bảo an sẽ ra nghị quyết trước khi áp dụng các biện pháp để duy trì hoà bình, khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh là một ví dụ. Ngày 2/8/1990, quân đội Iraq xâm chiếm Kuwait. Sau khi xác định tình hình thực tế, Hội đồng bảo an đã ra Nghị quyết số 660 nêu rõ hành vi của Iraq là hành vi xâm lược và yêu cầu Iraq phải rút quân đội khỏi Kuwait. Việc xác định tình hình của Hội đồng bảo an là cơ sở pháp lý cho các hoạt động tiếp theo về duy trì hoà bình. Hội đồng bảo an cũng có thể yêu cầu các bên áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi đưa ra các kiến nghị hoặc quyết định áp dụng các biện pháp đã ra nhằm ngăn chặn sự phát triển tiếp theo của tình hình như: ngừng bắn, đưa quân đội trở về vị trí xuất phát ban đầu, rút quân khỏi vùng chiếm đóng, thiết lập giới tuyến tạm thời, thiết lập các khu vực phi quân sự… Ví dụ: Ngày 9/1/2009, 15 nước thuộc HĐBA nhóm họp và thông qua nghị quyết yêu cầu Israel và Hamas dừng bắn ngay lập tức ở Gaza với 14 phiếu thuận và một phiếu trắng của Mỹ. Nghị quyết lên án mọi hành vi bạo lực và thù địch chống lại dân thường, kêu gọi thúc đẩy các hoạt động nhân đạo tại Dải Gaza, đặc biệt là việc mở hành lang nhân đạo, cho phép người dân trong khu vực nhận đồ cứu trợ. Hoặc vùng phi quân sự do Hội đồng bảo an LHQ lập ra, chạy từ biên giới hai nước Kuwait và Iraq với A-rap Saudi đến bờ biển vịnh Péc-xích, đây là dải đất dài 120 dặm Anh (192 km), rộng 4,8 km (3 dặm Anh) về phía Kuwait và 9,6 km (6 dặm Anh) về phía Iraq, ngăn cách Kuwait và Iraq. Nếu tình hình tiếp tục xấu đi, Hội đồng bảo an có quyền quyết định áp dụng những biện pháp trừng phạt phi quân sự để thực hiện các nghị quyết của Hội đồng (Điều 41). Ví dụ: Hội đồng bảo an đã ra Nghị quyết 661 áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iraq khi Iraq không thực hiện Nghị quyết 660 trên. Hoặc tại Nam Phi, những biện pháp trừng phạt của Hội đồng bảo an được xem như đã có góp phần chấm dứt chủ nghĩa A-pác-thai và thành lập chế độ cai trị của khối dân tộc đa số hồi năm 1994. Nếu Hội đồng bảo an xét thấy những biện pháp trừng phạt trên là không thích hợp hoặc đã mất hiệu lực thì theo Điều 42, Hội đồng bảo an có quyền áp dụng các biện pháp quân sự nhằm duy trì hoặc khôi phục nền hoà bình và an ninh quốc tế. Trở lại với ví dụ trên, ngày 29/11/1990, sau khi ra Nghị quyết 661 mà Iraq vẫn không thực hiện việc rút quân khỏi Kuwait, Hội đồng bảo an đã ra Nghị quyết 678 buộc Iraq hạn chót phải rút quân khỏi Kuwait là ngày 15/1/1991. Nghị quyết này cũng nêu rõ, nếu Iraq không tuân thủ thì các quốc gia sẽ được “áp dụng mọi biện pháp cần thiết” để buộc Iraq phải thực hiện các Nghị quyết của Liên hợp quốc, thiết lập lại hoà bình và an ninh khu vực. Như vậy, có thể thấy, trong trường hợp hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược thì Hội đồng bảo an đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định các biện pháp nên áp dụng để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. 3. Vai trò của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong việc gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế Ngày 25/9/1948, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua quyết định thiết lập hoạt động gìn giữ hòa bình nhằm giám sát quá trình đình chiến tại Palestin (UNTSO), đánh dấu sự ra đời của hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Theo thống kê thì hiện nay có một số hoạt động gìn giữ hòa bình như ở khu vực châu Phi có phái đoàn quan sát viên Angola (MONUA) từ tháng 7.1997; phái đoàn Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi (MINURCA) từ tháng 4.1998; ở khu vực châu Mĩ có phái đoàn cảnh sát dân sự Liên hợp quốc tại Haiti (MIPONUH) từ tháng 12.1997. Có thể thấy, hoạt động gìn giữ hòa bình là một trong những hoạt động có ý nghĩa thực tiễn quan trọng mà Liên hợp quốc thông qua các hoạt động cụ thể dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bảo an nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Mặc dù không được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc song hoạt động gìn giữ hòa bình được ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đẩy nhanh quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc được hiểu là việc triển khai các hoạt động quân sự và dân sự để thiết lập một sự hiện diện của Liên hợp quốc tại nơi có xung đột với mục đích ổn định tình hình tại khu vực xung đột và tạo ra những điều kiện thuận lợi để giải quyết xung đột cũng như khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Có thể thấy rằng, hoạt động gìn giữ hòa bình khác với các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế được quy định trong chương VI của Hiến chương cũng không phải là các biện pháp mang tính cưỡng chế quy định tại chương VII Hiến chương Liên hợp quốc. Trên thực tế, mọi hoạt động này không được đề cập đến trong Hiến chương Liên hợp quốc mà đây chỉ là những giải pháp mang tính trung gian giữa hai biện pháp được nói đến ở trên hay nói cách khác, đây là hoạt động sử dụng các nhân viên quân sự nhưng không áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế. Như vậy, hoạt động gìn giữ hòa bình thực chất là duy trì hòa bình và tác dụng của hoạt động này là “một cách giúp đỡ những nước bị tàn phá do xung đột để tạo ra các điều kiện cho hòa bình”. Hoạt động gin giữ hòa bình bao gồm (nhưng không bị hạn chế) việc theo dõi sự rút quân của những lực lượng tham chiến ở các vùng xung đột trước đây, việc giám sát bầu cử, hỗ trợ tái thiết, các hoạt động ngoại giao phòng ngừa (biện pháp củng cố lòng tin như công khai các chương trình vũ khí…), xây dựng hòa bình sau xung đột như cứu trợ nhân đạo... Ví dụ: Với việc ký kết hiệp định hòa bình Paris vào năm 1991, Liên hợp quốc đã cử tới Campuchia 22.000 quân trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc thuộc Phái bộ chuyển tiếp của Liên Hiệp Quốc ở Campuchia (Untac). Họ đến Campuchia vào cuối năm 1991 để tổ chức cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5-1993, lần đầu tiên sau hơn hai thập kỷ. Hoặc Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ngày 01/08/2003 đã thông qua Nghị quyết cho phép lực lượng đa quốc gia tới Liberia nhằm triển khai một lệnh ngừng bắn giúp đất nước này kết thúc cuộc nội chiến đẫm máu. Một ví dụ nữa, cũng cho thấy vai trò quan trọng của Hội đồng bảo an trong quá trình gìn giữ hòa bình, đó là tháng 7/2007 Hội đồng bảo an đã thông qua nghị quyết đưa 26.000 binh sĩ và cảnh sát gìn giữ hòa bình đến Dafur, Sudan nhằm giúp chấm dứt 4 năm nội chiến tại vùng đất này khiến hơn 200.000 người thiệt mạng và hơn 2 triệu người phải rời bỏ nhà cửa. Hiến chương Liên hợp quốc cho phép Hội đồng bảo an Liên hợp quốc có quyền lực và trách nhiệm, có thể dùng các hoạt động của tập thể để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Do vậy cộng đồng quốc tế thường xem Hội đồng bảo an có quyền trong hoạt động gìn giữ hòa bình và toàn bộ các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc phải được cho phép bởi Hội đồng bảo an. Từ năm 1946 đến năm 2005, dưới sự lãnh đạo chung của Hội đồng bảo an, các lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc đã triển khai được 60 sứ mệnh gìn giữ hòa bình trên khắp thế giới, trong
Luận văn liên quan