Đề tài Vị trí và vai trò của nguyên thủ quốc gia

Trong lịch sử lập hiến của nhà nước tư sản thì nguyên thủ quốc gia là một chế định đặc biệt. Cách mạng tư sản nổ ra muốn lật đổ hoàn toàn sự thống trị của chế độ phong kiến, thay nhà nước phong kiến bằng một quyền lực được tổ chức thành nhà nước của giai cấp tư sản. Tuy nhiên sự thống trị lâu dài của tầng lớp phong kiến đã được nhiều tầng lớp nhân dân (nông dân, công nhân, thương nhân thành thị) chấp nhân một cách tự nhiên và đã ăn sâu vào trong tiềm thức của họ, đồng thời thế lực của giai cấp tư sản lúc đó chưa đủ mạnh để có thể đè bẹp hoàn toàn thế lực phong kiến đã thông trị lâu dài, từ đó giai cấp tư sản trở nên mong muốn chia sẻ quyền lực thống trị với nhà vua. Sự hiện diện của nhà vua trong bộ máy nhà nước đã hình thành chế định nguyên thủ quốc gia trong pháp luật (hiến pháp) tư sản. Và dần dần theo sự biến động trong lịch sử mà ở từng quốc gia có thể tồn tại các vị vua hay nữ hoàng ở các nước còn duy trì chính thể quân chủ, các vị tổng thống của các nước theo chính thể công hòa. Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước, hay nói cách khác là phụ thuộc vào hình thức chính thể của những nhà nước đó.

docx7 trang | Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 6566 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vị trí và vai trò của nguyên thủ quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA Lí do chọn đề tài: Vị trí và vai trò của Nguyên thủ quốc gia Chế định Nguyên thủ quốc gia là một chế định đã có từ lâu đời. Nó xuất hiện từ khi có sự xuất hiện của nhà nước (đầu tiên là nhà nước chiếm hữu nô lệ). Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại. Trong lịch sử lập hiến của nhà nước tư sản thì nguyên thủ quốc gia là một chế định đặc biệt. Cách mạng tư sản nổ ra muốn lật đổ hoàn toàn sự thống trị của chế độ phong kiến, thay nhà nước phong kiến bằng một quyền lực được tổ chức thành nhà nước của giai cấp tư sản. Tuy nhiên sự thống trị lâu dài của tầng lớp phong kiến đã được nhiều tầng lớp nhân dân (nông dân, công nhân, thương nhân thành thị) chấp nhân một cách tự nhiên và đã ăn sâu vào trong tiềm thức của họ, đồng thời thế lực của giai cấp tư sản lúc đó chưa đủ mạnh để có thể đè bẹp hoàn toàn thế lực phong kiến đã thông trị lâu dài, từ đó giai cấp tư sản trở nên mong muốn chia sẻ quyền lực thống trị với nhà vua. Sự hiện diện của nhà vua trong bộ máy nhà nước đã hình thành chế định nguyên thủ quốc gia trong pháp luật (hiến pháp) tư sản. Và dần dần theo sự biến động trong lịch sử mà ở từng quốc gia có thể tồn tại các vị vua hay nữ hoàng ở các nước còn duy trì chính thể quân chủ, các vị tổng thống của các nước theo chính thể công hòa. Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước, hay nói cách khác là phụ thuộc vào hình thức chính thể của những nhà nước đó. Vị trí pháp lí của nguyên thủ quốc gia Địa vị pháp lí của nguyên thủ quốc gia là sự khái quát hóa vị trí, mô hình, vai trò và mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của pháp luật. Trong xã hội chưa có hiến pháp thì nguyên thủ quốc gia (nhà vua) có quyền lực vô hạn và là cá nhân đại diện cho một quốc gia. Trong thời đại ngày nay, một xã hội có hiến pháp, tùy vào từng hiến pháp của từng quốc gia mà có các cách ghi nhận khác nhau về chế định này. Một số hiến pháp (chẳng hạn hiến pháp Công hòa liên bang Đức) thì xác định nguyên thủ quốc gia có một vị trí độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước và là biểu tượng quốc gia. Trong khi đó nhiều nước lại xác định rõ ràng nguyên thủ quốc gia là cá nhân thuộc một nhánh quyền lực nào đó (có thể hành pháp hay lập pháp) của nhà nước. Dù với tên gọi hết sức khác nhau, nhưng các nguyên thủ quốc gia đều được Hiến pháp quy định là người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại: về nguyên tắc đều là đại diện tượng trưng cho sự bền vững và tập trung của nhà nước. Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể Trong chính thể quân chủ Các nhà nước tổ chức theo chính thể quân chủ (phổ biến là quân chủ đại nghị) thì nguyên thủ quốc gia được gọi là các hoàng đế. Trong mô hình quân chủ, Nhà vua là biểu tượng của quốc gia, giữ cương vị suốt đời và được lựa chọn theo nguyên tắc thế tập, cha truyền con nối (Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, Anh, Hà Lan, một số nước Trung đông.) hoặc cũng có thể truyền lại cho những người trong hoàng tộc theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước đó. Chức năng của các hoàng đế chỉ năng về vai trò tượng trưng. Mọi hoạt đông của hoàng đế chỉ để chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động đã rồi của Nghị viện và Chính phủ. Hoàng đế không phải chịu trách nhiệm trước bất cứ vấn đề gì trừ trường hợp phạm tội phản bội tổ quốc. Ở những nước này, hoạt động của nguyên thủ quốc gia thể hiện “Nhà vua trị vì, nhưng không cai trị”. Hoạt động của nhà vua chỉ mang tính hình thức như một ông vua bị tước hết mọi quyền năng. Càng về sau, theo tiến trình lịch sử cùng với sự khẳng định chỗ đứng của giai cấp tư sản thì vai trò của Nhà vua cũng ngày càng hình thức. Ví dụ điển hình là Nữ hoàng Anh Elizabeth II – nguyên thủ quốc gia của Anh cùng với Canada và Australia. Về mặt danh nghĩa thì Nữ hoàng cũng chính thức là Nữ hoàng của Australia và Canada. Mặc dù chỉ mang tính hình thức nhưng người Anh nhận thấy Nữ hoàng vẫn còn có nhưng vai trò quyết định trong xã hội. Đây là biểu tượng của nước Anh thống nhất. Trong lúc Nội các tượng trưng cho uy quyền thì Nữ hoàng tượng trưng cho sự chính đáng. Vì chính là biểu tượng cho sự bền vững của dân tộc nên nguyên thủ quốc gia còn có một vị trí rất quan trọng trong những thời điểm mà nền an ninh, chủ quyền độc lập của quốc gia bị xâm phạm. Khi đó, nhà vua phải đứng ra kêu gọi tinh thần yêu nước, sự hy sinh của thần dân bảo vệ đất nước. Tổ quốc thời yên ả, Nhà vua sẵn lòng lui về hậu trường chính trị. Việc quản lí đất nước lại được giao cho các vị bộ trưởng mà đứng đầu là Thủ tướng. Trong chính thể công hòa đại nghị Ở các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị (điển hình là Cộng hòa Italia và CHLB Đức), nguyên thủ quốc gia là tổng thống. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, vị trí giống như các vị hoàng đế trong chính thể quân chủ đại nghị. Tuy nhiên ở chính thể này , nguyên thủ quốc gia do bầu cử có nhiệm kì 5-7 năm hoặc ít hơn. Nguyên thủ quốc gia thường không do nhân dân trực tiếp bầu ra mà được bầu dựa trên cơ sở của Nghị viện hoặc do Nghị viện trực tiếp bầu. Vì vậy tổng thống thường không có thực quyền. Có nhiều hiến pháp thì không xác định rõ ràng nguyên thủ quốc gia thuộc một nhánh quyền lực nào cả mà đúng ở vị trí trung lập và là biểu tượng của quốc gia. Còn một số nước theo chính thể đại nghị thì lại xác định rằng nguyên thủ quốc gia thuộc về quyền lập pháp và là người nằm trong quốc hội. Trong khi đó, các nước cộng hòa tổng thống hoặc nửa tổng thống thì lại quy định nguyên thủ quốc gia nắm quyền hành pháp. Ở chính thể tổng thống thì tổng thống là người nắm toàn quyền hành pháp với tư cách cá nhân nhưng trong chính thể cộng hòa nửa tổng thống (hỗn hợp) thì quyền hành pháp của tổng thống được chia sẻ với nội các (Thủ tướng). Về nguyên tắc trong chế độ tư sản, nguyên thủ quốc gia là một phần nằm trong bộ máy hành pháp. Ở chế độ đại nghị Nguyên thủ quốc gia là hành pháp tượng trưng, ở chính thể Cộng hòa tổng thống là hành pháp thực quyền. Quyền hạn và trách nhiệm của Nguyên thủ quốc gia Quyền hạn, trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia là một trong nhưng yếu tố quan trọng tạo nên vị trí pháp lí của nguyên thủ quốc gia. Điều này còn tùy thuộc vào từng chính thể và quy định ở từng quốc gia. Tuy nhiên về mặt pháp lí quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia có những điểm chung không phụ thuộc vào chính thể. Các Hiến pháp đều quy định: Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại. Ở đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay, chỉ ở chính thể Tổng thống quyền hạn của quốc trưởng (nguyên thủ quốc gia) mới được thực hiện một cách thực chất. Ở chính thể đại nghị, những quyền hạn của nguyên thủ quốc gia chỉ được thể hiện hình thức dưới sự bảo trợ, gò ép của các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là bộ máy hành pháp. Quyền hạn và trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia có liên quan đến mọi lĩnh vực hoạt động của bộ máy nhà nước, ta có thể chia thành nhóm: Trong lĩnh vực hành pháp, lập pháp và tư pháp. Trong lĩnh vực hành pháp Về đối nội Ở các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị hay quân chủ đại nghị thì quyền hạn của nguyên thủ quốc gia trong lĩnh vực này là hình thức. Về mặt nguyên tắc, nguyên thủ quốc gia (có thể là Tổng thống hoặc Hoàng đế) có quyền bổ nhiệm hoặc đề nghị Nghị viên bầu Thủ tướng. Nhưng thực tế thì nguyên thủ quốc gia chỉ có thể chọn người thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viên hoặc đảng có uy tín trong Nghị viện làm Thủ tướng. Quyền này chỉ được nâng cao khi Hạ nghị viện không có đảng chiếm đa số ghế. Trong hoạt động hành pháp, Quốc trưởng gần như chỉ để làm hợp lí hóa những quyết định của Chính phủ. Vì Chính phủ phải chịu trác nhiệm trước Quốc hội nên nguyên thủ quốc gia phải bổ nhiệm người được Quốc hội tín nhiệm làm người đứng đầu Chính phủ. Mọi hoạt động của hoàng đế được bảo đảm từ phía cơ quan hành pháp bằng những chữ ký “phó thự” kèm theo của bộ trưởng hoặc Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói mọi quyết định của nguyên thủ quốc gia –hoàng đế – chỉ có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo của các vị hàm bộ trưởng hoặc Thủ tướng. Chế định “phó thự” là chế định nhằm mục đích hạn chế quyền hạn thực tế của Nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp có tuyên bố về quyền hạn rộng lớn của nguyên thủ quốc gia nhưng thực tế nguyên thủ quốc gia không thực hiện đích thực các quyền hạn này. Đối với mô hình cộng hòa đại nghị, nguyên thủ quốc gia chỉ là nhân vật tượng trưng cho Nhà nước, giữ vai trò đại diện cho nhà nước. Theo chính thể này, trong lĩnh vực hành pháp nguyên thủ quốc gia không đứng đầu hành pháp, mà chỉ có quyền hành pháp hình thức giống như mô hình nguyên thủ quân chủ đại nghị. Về nguyên tắc, nguyên thủ quốc gia có quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang, phong hàm cao cấp trong lực lượng vũ trang. Nhưng trừ chính thể Tổng thống ra thì nguyên thủ quốc gia thực chất chỉ thực hiện theo sự áp đặt của Chính phủ. Ngoài ra theo quy định thì Nguyên thủ quốc gia còn có một số quyền về việc tổ chức nhân sự cao cấp của nhà nước, khen thưởng cấp nhà nước, phối hợp hoạt động của các nhánh quyền lực, về những tình trạng đặc biệt của đất nước phải áp dụng tình trạng thiết quân luật, dùng mọi biện pháp thậm chí có thể vi phạm Hiến pháp trong thời gian ngắn để đưa đất nước về trạng thái bình thường. Về đối ngoại Các Hiến pháp quy định nguyên thủ quốc gia có quyền thay mặt cho nhà nước về đối ngoại. Thực tế, phụ thuộc vào chính thể của mỗi nước mà việc thực hiện quyền hạn của Quốc trưởng trong lĩnh vực này cũng rất khác nhau. Nhìn chung nguyên thủ quốc gia đều là đại diện cho nhà nước trong các hoạt động mang tính nghi lễ. Các chuyến công du viếng thăm chính thức ra nước ngoài, các hoàng đế hay tổng thống đều được đón tiếp trọng thể theo nghi lễ dối với nguyên thủ quốc gia như cử quốc ca, duyệt đội quân danh dự, hưởng các đặc quyền ngoại giao Nhưng nếu không phải là người đứng đầu về hành pháp thì nguyên thủ quốc gia không được kí kết các hiệp ước quan trọng với các nước khác mà thay vào đó người trực tiếp kí kết là các Bộ trưởng tháp tùng đi theo. Sự hiện diện của Nguyên thủ quốc gia chỉ là sự chứng giám. Ngoài ra, quốc trưởng còn có quyền bổ nhiệm các đại sứ, đại diện ngoại giao, triệu hồi các đại sứ, tiếp nhận ủy nhiệm thư của đại diện ngoại giao nước ngoài, quyết định phong hàm cấp ngoại giao, tiếp nhận đại sứ, đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đàm phán, kí kết các hiệp ước, hiệp định quốc tế. Ở một số nước còn quy định, nguyên thủ quốc gia còn có quyền tuyên bố chiến tranh và hòa bình khi có sự phê chuẩn của Nghị viện. Tóm lại, trong lĩnh vực đối ngoại, quyền hạn của nguyên thủ quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào chính thể. Ở chính thể cộng hòa đại nghị hay quân chủ đại nghị,nguyên thủ quốc gia thực hiện rất hình thức, chỉ khi có sự đồng ý của Chính phủ, “đó là những ông vua bị tước hết quyền trong lĩnh vực đối ngoại” Trong lĩnh vực lập pháp Quốc trưởng có trách nhiệm công bố những văn bản luật đã được Nghị viên thông qua. Theo thông lệ quốc tế, việc này nhằm chứng thực các văn bản luật được cơ quan lập pháp thông qua một cách đúng luật và phù hợp với Hiến pháp. Quốc trưởng còn có quyền “phủ quyết” các đạo luật đã dược Nghị viện thông qua. Đối với mô hình quân chủ đại nghị và quân chủ nhị nguyên, Nghị viện là cơ quan lập pháp nhưng nguyên thủ cũng có một số thẩm quyền nhất định trong lập pháp. Đối với chính thể quân chủ nhị nguyên, nhà vua có quyền ban hành các văn bản (có giá trị như luật), có quyền phủ quyết các dự án luật được Nghị viện thông qua. Quyền “phủ quyết” của nguyên thủ quốc gia có thể được chia ra như sau: Quyền phủ quyết tuyệt đối Khi nguyên thủ quốc gia không đồng ý công bố dự án luật đã được Nghị viện thông qua thì dự án không cần phải xem xét lại.Đây là quyết định cuối cùng và dự án đó không thể trở thành đạo luật. Quyền này chỉ còn hiện hành ở Bỉ và Anh về mặt pháp lí hình thức, đã từ rất lâu không còn được các hoàng đế sử dụng. Quyền phủ quyết tương đối Khi một dự án luật đã được Quốc hội thì dự án này phải được Quốc trưởng ký và công bố. Quốc trưởng có quyền phủ quyết buộc Quốc hội phải xem xét lại. Khi đó, Quốc hội buộc phải xem xét lại hoặc có thể giữ nguyên dự án đó với mức biểu quyết cao hơn (có thể là ½ hoặc ¾ nghị sĩ đồng ý) Quyền phủ quyết lựa chọn Quyền này được sử dụng khi nguyên thủ quốc gia không đồng ý với một số điều khoản của dự án. Quyền này có những quy định khác nhau tùy mỗi quốc gia. Ở Mĩ, đặc biệt Tổng thống chỉ có 2 loại phủ quyết là phủ quyết tương đối và phủ quyết “bỏ túi”. Quyền phủ quyết “bỏ túi” là một quyền khá đặc biệt của Tổng thống Mĩ. Trong thời hạn 10 ngày kể từ khi Tổng thống nhận được dự luật, nếu Nghị viện không nhận được dự luật trả lại thì coi như dự luật đó đã được Tổng thống thông qua. Nhưng nếu trong 10 ngày này, Nghị viện kết thúc khóa họp của mình thì dự luật này sẽ không thể trở thành luật được. Ở một số nước quân chủ đại nghị như nước Anh thì hầu như Nữ hoàng không bao giờ sử dụng đến quyền này. Đây là một tục lệ không thành văn của Hiến pháp. Theo quan điểm của một số nhà luật học, quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia không mang tính dân chủ, làm hạ thấp vai trò của cơ qua dân cử, phá vỡ nguyên tắc “phân chia quyền lực” và quyền lực tối cao của Nghị viện do giai cấp tư sản đặt ra. Đối với mô hình quân chủ đại nghị và quân chủ nhị nguyên, Nghị viện là cơ quan lập pháp nhưng nguyên thủ cũng có một số thẩm quyền nhất định trong lập pháp. Đối với chính thể quân chủ nhị nguyên, nhà vua có quyền ban hành các văn bản (có giá trị như luật), có quyền phủ quyết các dự án luật được Nghị viện thông qua. Ở chính thể quân chủ đại nghị, vua còn có quyền ban hành tu chính án Hiến pháp, đạo luật, sắc lệnh (do nội các soạn thảo) (Điều 6, Hiến pháp Nhật Bản quy định: “Nhật hoàng cũng có quyền giải tán hạ viện, triệu tập Quốc hội”). Trong lĩnh vực này, nguyên thủ quốc gia một cố nước còn có quyền bổ nhiệm một số thượng, hạ nghị sĩ và triệu tập khóa họp của Nghị viện. Ví dụ như Nữ hoàng có quyền bổ nhiệm một số thượng nghị sĩ (phong tước). Theo quy định của một số nước, nguyên thủ quốc gia còn có quyền giải tán Nghị viện khi Nghị viện hoạt động không còn được nhân dân tín nhiệm để nhân dân bầu ra một Nghị viện mới. Quyền này có ý nghĩa trong chế độ đa đảng như một vũ khí của Chính phủ và Đảng cầm quyền, nâng cao ý nghĩa cuộc trưng cầu ý dân. Trong lĩnh vực tư pháp Nguyên thủ quốc gia có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các thẩm phán tòa án tối cao và một số thẩm phán tòa án địa phương,có quyền ân xá, quyền giảm hình phạt, thay đổi lời buộc tội Đối với mô hình quân chủ đại nghị và quân chủ nhị nguyên, công việc xét xử chủ yếu do Tòa án đảm nhận. Tuy nhiên nhà vua vẫn có một số quyền hạn, chẳng hạn như quyền ân xá, đặc xáTrong điều 6 Hiến pháp Nhật Bản ghi nhận hoàng đế được “sử dụng quyền ân xá, đặc xá, khôi phục công quyền”. Ngoài ra, nguyên thủ quốc gia còn có quyền ban thưởng huân, huy chương, danh hiệu, vinh dự nhà nước Ở số ít các quốc gia còn duy trì theo quân chủ tuyệt đối thì nguyên thủ quốc gia (Nhà vua) là người đứng đầu cơ quan hành pháp, toàn quyền bổ nhiệm nội các như Ảrập Xêút, Ôman, Quata, cơ quan lập pháp chỉ có nhiệm vụ tư vấn cho nhà vua. Trong lĩnh vực tư pháp, mặc dù có hệ thống tòa án nhưng vua là người có quyền cao nhất, có quyền xét xử cuối cùng. Đối với mô hình cộng hòa xã hội chủ nghĩa, nguyên thủ quốc gia đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, có một phần quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo mô hình này, ngoại trừ Cuba, (chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng), các nước còn lại Hiến pháp đều quy định nguyên thủ đề cử Thủ tướng để Quốc hội phê chuẩn. Quan hệ giữa nguyên thủ và chính phủ là quan hệ phối hợp. Trong lĩnh vực lập pháp, nguyên thủ quốc gia ký lệnh công bố luật đã được Quốc hội thông qua.
Luận văn liên quan