Đề tài Việt Nam tham gia WTO và các hiệp định thương mại tự do FTA: Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may

Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung ở Việt Nam. Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây dựng và củng cố quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới, đồng thời tận dụng hiệu quả nguồn lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí thấp. Triển vọng của ngành dệt may đang sáng dần, nhất là khi nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam vẫn tiếp tục có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với việc Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định đối tác kinh tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) ở cấp song phương và đa phương, các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng sẽ có nhiều cơ hội từ việc phát triển thương mại theo cách ít bị bảo hộ (thường là méo mó) nhất. Tuy nhiên, những cơ hội ấy chỉ tận dụng được hiệu quả nếu doanh nghiệp xử lý hiệu quả các thách thức từ quá trình hội nhập. Để tận dụng được cơ hội và xử lý được thách thức, các doanh nghiệp trước hết cần được cung cấp thông tin liên quan đến sự phát triển của ngành. Nghiên cứu này được thực hiện trước hết nhằm đưa ra những thông tin chung và cơ bản nhất về các cam kết liên quan đến ngành dệt may của Việt Nam trong các hiệp định thương mại. Cùng với việc trình bày một số đánh giá triển vọng và các vấn đề, thách thức, nghiên cứu sẽ có một số khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, cũng như các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của ngành dệt may. Nghiên cứu này được chuẩn bị chủ yếu cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may, mặc dù có thể sử dụng để tham khảo cho các đối tượng thuộc Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, và các cơ quan nghiên cứu khác. Ngoài phần Giới thiệu, báo cáo còn có 04 phần. Phần II tóm tắt các cam kết thương mại của Việt Nam trong ngành dệt may trong khung khổ WTO. Tiếp đó, phần III đánh giá lại diễn biến và triển vọng phát triển của ngành dệt may Việt Nam, có tính đến khả năng tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính được thể hiện qua các hiệp định thương mại. Phần III cũng nhìn nhận lại vai trò của Chính phủ và Hiệp hội Dệt May Việt Nam trong công tác phát triển ngành dệt may nói chung và thúc đẩy xuất khẩu dệt may nói riêng. Phần IV nêu lên những vấn đề và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may, nhìn từ góc độ các hiệp định thương mại. Cuối cùng, phần V rút ra một số kết luận chính, và đưa ra những khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, và các doanh nghiệp trong ngành dệt may.

doc44 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2258 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam tham gia WTO và các hiệp định thương mại tự do FTA: Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆT NAM THAM GIA WTO VÀ CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA): Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may (Báo cáo cuối cùng) Người thực hiện: Nguyễn Anh Dương Đặng Phương Dung Báo cáo này thực hiện theo yêu cầu của Dự án “Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu tại Việt Nam – VIE/61/94” Cục Xúc tiến thương mại Bộ Công Thương MỤC LỤC I. Giới thiệu chung 44 II. Cam kết thương mại của Việt Nam về dệt may trong các hiệp định thương mại 55 A. WTO và các hiệp định có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may 55 B. Cam kết thuế quan của một số thị trường chính 1010 C. Quyền lợi và nghĩa vụ cam kết của ngành dệt may Việt Nam 1212 III. Xuất khẩu hàng dệt may: Hiện trạng và triển vọng 1515 A. Xuất khẩu hàng dệt may và vai trò trong thời gian qua, đặc biệt từ khi gia nhập WTO 1515 B. Một số phân tích đối với ngành dệt may của Việt Nam 1818 C. Tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính trong thời gian tới 2121 D. Đánh giá về tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2424 E. Vai trò của Chính phủ và Hiệp hội trong quá trình phát triển ngành dệt may nói chung và xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may nói riêng 2727 1. Các biện pháp chung 2727 2. Các biện pháp trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 3030 IV. Các vấn đề đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam 3131 V. Kết luận và khuyến nghị 3737 A. Kết luận 3737 B. Khuyến nghị 3838 C. Đề xuất một số chương trình hành động 4141 Tài liệu tham khảo 4443 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi tối huệ quốc của một số thị trường chính, 2006-2008 1111 Bảng 2: Thuế nhập khẩu cam kết (trung bình) khi gia nhập WTO 1313 Bảng 3: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%) 1414 Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008 1717 Bảng 5: Trần thuế suất nhập khẩu cam kết cuối cùng của một số thị trường chính 2222 Bảng 6: Thuế suất (kết hợp) của Nhật Bản đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 2323 Bảng 7: Bảng số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2013 2525 Bảng 8: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2005-2020 2626 Bảng 9: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn đến năm 2020 2728 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1: FDI vào ngành dệt may: số dự án và số vốn đầu tư (triệu USD) trong 1988-2008 1918 Hình 2: Ảnh hưởng của các vấn đề đến chuỗi giá trị ngành dệt may 3434 DANH MỤC CÁC HỘP Hộp 1: Các sản phẩm dệt may trong Hệ thống phân loại HS 1010 Hộp 2: Tác động của thuế nhập khẩu và hàm ý từ tự do hóa thương mại 1414 Hộp 3: Một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam 1919 Hộp 4: Một số điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam 2020 Hộp 5: Một số cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam 2021 Hộp 6: Một số thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam 2121 Giới thiệu chung Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung ở Việt Nam. Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây dựng và củng cố quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới, đồng thời tận dụng hiệu quả nguồn lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí thấp. Triển vọng của ngành dệt may đang sáng dần, nhất là khi nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam vẫn tiếp tục có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với việc Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định đối tác kinh tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) ở cấp song phương và đa phương, các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng sẽ có nhiều cơ hội từ việc phát triển thương mại theo cách ít bị bảo hộ (thường là méo mó) nhất. Tuy nhiên, những cơ hội ấy chỉ tận dụng được hiệu quả nếu doanh nghiệp xử lý hiệu quả các thách thức từ quá trình hội nhập. Để tận dụng được cơ hội và xử lý được thách thức, các doanh nghiệp trước hết cần được cung cấp thông tin liên quan đến sự phát triển của ngành. Nghiên cứu này được thực hiện trước hết nhằm đưa ra những thông tin chung và cơ bản nhất về các cam kết liên quan đến ngành dệt may của Việt Nam trong các hiệp định thương mại. Cùng với việc trình bày một số đánh giá triển vọng và các vấn đề, thách thức, nghiên cứu sẽ có một số khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, cũng như các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của ngành dệt may. Nghiên cứu này được chuẩn bị chủ yếu cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may, mặc dù có thể sử dụng để tham khảo cho các đối tượng thuộc Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, và các cơ quan nghiên cứu khác. Ngoài phần Giới thiệu, báo cáo còn có 04 phần. Phần II tóm tắt các cam kết thương mại của Việt Nam trong ngành dệt may trong khung khổ WTO. Tiếp đó, phần III đánh giá lại diễn biến và triển vọng phát triển của ngành dệt may Việt Nam, có tính đến khả năng tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính được thể hiện qua các hiệp định thương mại. Phần III cũng nhìn nhận lại vai trò của Chính phủ và Hiệp hội Dệt May Việt Nam trong công tác phát triển ngành dệt may nói chung và thúc đẩy xuất khẩu dệt may nói riêng. Phần IV nêu lên những vấn đề và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may, nhìn từ góc độ các hiệp định thương mại. Cuối cùng, phần V rút ra một số kết luận chính, và đưa ra những khuyến nghị đối với Chính phủ, Hiệp hội Dệt May Việt Nam, và các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Cam kết thương mại của Việt Nam về dệt may trong các hiệp định thương mại WTO và các hiệp định có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là tổ chức toàn cầu chuyên xử lý các vấn đề liên quan đến quy định thương mại giữa các nền kinh tế. Hoạt động của WTO dựa trên nền tảng các hiệp định được các thành viên đàm phán, ký kết và phê chuẩn. Mục tiêu hoạt động của WTO là hỗ trợ hoạt động của các nhà sản xuất, xuất khẩu, và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thông qua việc giảm dần các rào cản đối với hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc gia. Kết quả là môi trường kinh tế thế giới sẽ ít bị bóp méo bởi các quy định pháp lý của một quốc gia hay một số quốc gia, qua đó làm tăng thịnh vượng và tổng giá trị phúc lợi cho tất cả người dân và nền kinh tế. Tuy nhiên, WTO không chỉ hướng đến tự do hóa thương mại mà trong một số trường hợp còn ủng hộ việc duy trì các rào cản thương mại nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường hoặc tránh sự lây lan của dịch bệnh, v.v. Các hiệp định của WTO rất dài và rất phức tạp, do có nhiều quy định xử lý các vấn đề pháp lý điều chỉnh một loạt các lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, dệt may, ngân hàng, viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp và an toàn sản phẩm, vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, v.v. Tuy nhiên, tất cả các hiệp định này đều dựa trên những nguyên tắc có tính nền tảng, đơn giản. Những nguyên tắc này chính là cơ sở cho hệ thống trao đổi thương mại đa phương. Thứ nhất, hoạt động thương mại không bị phân biệt đối xử. Nguyên tắc này dựa trên hai cột trụ chính: đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử tối huệ quốc yêu cầu các quốc gia không phân biệt đối xử giữa các nền kinh tế đối tác. Nói cách khác, nếu một quốc gia dành ưu đãi đặc biệt (chẳng hạn, dưới dạng mức thuế quan ưu đãi thấp hơn) cho một đối tác nào đó thì cũng phải dành ưu đãi ấy cho tất cả các đối tác là thành viên của WTO khác. Nguyên tắc này là rất quan trọng, được thể hiện trong điều khoản đầu tiên của Hiệp định Tổng quan về Thuế quan và Thương mại (GATT), và cũng được ưu tiên trong Hiệp định Tổng quan về Thương mại Dịch vụ (GATS). Tuy nhiên, đối xử tối huệ quốc không áp dụng đối với một số trường hợp (dưới những quy định ngặt nghèo) như khi các quốc gia thành viên tham gia hiệp định thương mại tự do, hay khi một quốc gia dành ưu đãi cho một thành viên là nước đang phát triển, v.v. Trong khi đó, đối xử quốc gia yêu cầu mỗi thành viên phải đối xử bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, ít nhất là sau khi hàng nước ngoài đã thâm nhập thị trường. Đối xử quốc gia này cũng được áp dụng đối với các dịch vụ trong nước và nước ngoài, và với các thương quyền, bản quyền, và bằng sáng chế trong nước và nước ngoài. Nguyên tắc này được thể hiện trong cả ba hiệp định chính của WTO (GATT, GATS, và TRIPS). Lưu ý là đối xử quốc gia chỉ áp dựng khi một sản phẩm, dịch vụ hay tài sản trí tuệ đã tham gia thị trường. Thứ hai, khuyến khích tự do hóa thương mại một cách dần dần, thông qua đàm phán. Giảm bớt rào cản thương mại (như thuế nhập khẩu, hạn ngạch, v.v.) là một trong những biện pháp rõ nhất để khuyến khích thương mại. Kể từ khi GATT được đưa vào từ năm 1947-1948 đã có 8 vòng đàm phán. Vòng đàm phán thứ 9 - dưới Chương trình Nghị sự Phát triển Doha - đang được tiến hành. Trong giai đoạn đầu, những vòng đàm phán tập trung vào giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Đến giữa thập kỷ 1990, các nước công nghiệp đã giảm mức thuế quan đối với hàng công nghiệp xuống dưới mức 4%. Kể từ những năm 1980, các vòng đàm phán cũng tập trung với những rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa, và những lĩnh vực khác như dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Quá trình mở cửa thị trường có thể mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng đòi hỏi phải có những bước điều chỉnh. Các hiệp định WTO cho phép các nước thành viên điều chỉnh dần theo hướng gia tăng tự do hóa. Thứ ba, chính sách thương mại phải dễ tiên liệu, thông qua cam kết có hiệu lực và minh bạch. Trên thực tế, cam kết không tăng rào cản thương mại có thể đóng vai trò quan trọng như là giảm rào cản thương mại, vì cam kết ấy giúp các doanh nghiệp có niềm tin hơn vào các cơ hội trong tương lai. Tính ổn định và dễ tiên liệu của chính sách sẽ giúp khuyến khích đầu tư, tạo việc làm, trong khi người tiêu dùng lại được hưởng lợi từ cạnh tranh (khiến hàng hóa đa dạng hơn và giá rẻ hơn). Chính hệ thống thương mại đa phương thể hiện nỗ lực của các chính phủ trong việc xây dựng môi trường kinh doanh ổn định và dễ tiên liệu hơn. Trong khung khổ của WTO, khi các quốc gia đồng ý mở cửa thị trường hàng hóa hoặc dịch vụ, họ sẽ phải đưa ra những cam kết có hiệu lực. Đối với thương mại hàng hóa, cam kết có hiệu lực có thể được thể hiện dưới dạng trần thuế suất. Một quốc gia có thể thay đổi các cam kết có hiệu lực này, với điều kiện phải đàm phán với các đối tác thương mại khác. Bên cạnh đó, hệ thống WTO còn cải thiện tính ổn định và dễ tiên liệu thông qua việc không khuyến khích sử dụng hạn ngạch, yêu cầu làm rõ và công khai các quy định thương mại. Thứ tư, hệ thống WTO thúc đẩy cạnh tranh công bằng. Mặc dù có quan điểm giảm rào cản thương mại, hệ thống WTO vẫn cho phép tồn tại thuế quan và, trong một số ít trường hợp khác, các loại hình bảo hộ khác. Như vậy, hệ thống quy định của WTO hướng tới cạnh tranh mở, công bằng, và không bị bóp méo. Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp cũng cho phép các chính phủ phản ứng bằng cách áp đặt thêm thuế quan nhập khẩu nhằm bù đắp những thiệt hại của thương mại không công bằng. Nhiều hiệp định khác, như trong nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, v.v. cũng hướng tới cạnh tranh công bằng. Thứ năm, hệ thống quy định của WTO khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế. Với việc thúc đẩy thương mại theo hướng mở, công bằng, và không bị bóp méo, hệ thống quy định của WTO đã góp phần giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cần có sự linh hoạt về thời gian cần thiết để thực thi các hiệp định. Các hiệp định cũng cho phép các hỗ trợ đặc biệt và miễn trừ thương mại đối với các nước đang phát triển. Kể từ vòng đàm phán Uruguay, rất nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã thực hiện các chương trình tự do hóa thương mại. Vai trò của các nước đang phát triển trong các vòng đàm phán, đặc biệt là vòng đàm phán Doha, đã lớn hơn rất nhiều, thể hiện qua tiếng nói chủ động và có ảnh hưởng của các nước này trong quá trình đàm phán. Cuối vòng Uruguay, các nước đang phát triển lẽ ra phải thực hiện hầu hết các nghĩa vụ như của các nước phát triển, nhưng các hiệp định đã dành cho họ những khoảng thời gian nhất định để điều chỉnh theo một số điều khoản của WTO. Một số hiệp định của WTO có thể điều chỉnh hoạt động của ngành may mặc. Thứ nhất, Hiệp định Tổng quan về Thuế quan và Thương mại (1994) được ký kết vào năm 1994 có những quy định chung về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đối với hoạt động trao đổi hàng hóa, trong đó có hàng dệt may. Theo đó, hàng dệt may xuất khẩu của thành viên WTO vào một nước thành viên khác sẽ nhận được những đối xử tốt nhất (chẳng hạn, về thuế nhập khẩu) mà nước thành viên ấy dành cho các thành viên WTO. Thứ hai, Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may. Hiệp định này nhằm bảo đảm các quy định, tiêu chuẩn, thủ tục kiểm định và chứng nhận không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại, rõ ràng. Trong những năm gần đây, các quốc gia thành viên đã áp dụng rất nhiều quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật, với lý do nhằm bảo đảm cho hàng hóa đủ chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân bản xứ - vốn có mức sống cao hơn - hoặc nhằm khuyến khích các xã hội hiện đại sử dụng các hàng hóa thân thiện với môi trường. Tuy vậy, những lý do này thường được sử dụng để bào chữa cho những rào cản kỹ thuật có tác động bóp méo quá mức cần thiết. Bản thân việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài cũng gây ra những khoản chi phí không nhỏ cho các nhà sản xuất và xuất khẩu, và làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Thứ ba, các quy định về xuất xứ của hàng hóa cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường của các sản phẩm dệt may. Các quy định này liên quan đến các tiêu chí được sử dụng nhằm xác định xem sản phẩm được sản xuất ở đâu. Theo Hiệp định về Quy định xuất xứ, các thành viên WTO phải bảo đảm các quy định xuất xứ được ban hành và thực thi một cách minh bạch, mà không có tác dụng hạn chế, bóp méo, hay gián đoạn đối với thương mại quốc tế, và được quản lý một cách thống nhất, đầy đủ, và hợp lý. Về dài hạn, Hiệp định hướng tới sự hài hòa hóa các quy định về xuất xứ của các nước thành viên WTO, ngoại trừ các quy định trong một số hiệp định ưu đãi thương mại (như hiệp định thương mại tự do). Tất cả các quốc gia đều thừa nhận rằng việc hài hòa hóa các quy định này sẽ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế. Các quy định về xuất xứ được sử dụng nhằm: thực hiện các biện pháp và công cụ chính sách thương mại như thuế chống bán phá giá, các biện pháp tự vệ, v.v.; xác định xem liệu sản phẩm nhập khẩu sẽ nhận được ưu đãi tối huệ quốc hay chỉ là ưu đãi thương mại; thống kê thương mại; vận dụng các quy định về nhãn mác; và phục vụ cho mua sắm chính phủ. Tuy vậy, các quy định này cũng có thể được vận dụng thiếu hợp lý với mục đích bảo hộ. Chính vì vậy, Hiệp định về xuất xứ hàng hóa có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may. Thứ tư, định giá hải quan cũng là một vấn đề cần được tính đến. Định giá hải quan là một thủ tục hải quan được thực hiện nhằm xác định giá trị hải quan của hàng nhập khẩu. Đối với các đơn vị nhập khẩu, quá trình này có ý nghĩa quan trọng như là mức thuế được áp dụng, vì nếu mức thuế được tính theo tỷ lệ % của giá trị hải quan, giá trị hải quan cũng ảnh hưởng đến mức thuế phải chịu đối với hàng nhập khẩu. Hiệp định về định giá hải quan trong khung khổ WTO hướng tới một hệ thống định giá hàng hóa cho mục đích hải quan được thực hiện một cách công bằng, đồng nhất, và trung tính. Kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định này đã được thay thế bằng Hiệp định về thực thi Điều VII của GATT 1994, và chỉ áp dụng đối với quá trình định giá hàng nhập khẩu để áp dụng mức thuế nhập khẩu theo tỷ lệ %. Theo đó, định giá hải quan chủ yếu dựa trên giá hàng hóa thực trả - thường được thể hiện trên hóa đơn - có thực hiện một số điều chỉnh được nêu trong Điều VIII. 6 phương pháp định giá được sử dụng là: (1) giá trị giao dịch; (2) giá trị giao dịch của hàng hóa giống hệt; (3) giá trị giao dịch của hàng hóa tương tự; (4) phương pháp trừ (deduction); (5) phương pháp tính toán (computed method); (6) phương pháp dự phòng (fall back method). Hiện tại các Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng gia công là chủ yếu, vì vậy các DN chưa thấy rõ được sự ảnh hưởng của Hiệp định này. Tuy nhiên các DN đang phấn đấu tăng dần tỷ lệ đơn hàng theo phương thức FOB, do vậy việc hiểu biết Hiệp định này là một việc cần thiết để các DN chủ động sử dụng được lợi thế của phương pháp định giá này tăng tính cạnh tranh của sản phẩm may mặc Việt Nam khi hội nhập thế giới. Một hiệp định khác có thể ảnh hưởng đến ngành dệt may khi gia nhập WTO là quy định về việc bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may, sau khi Hiệp định về Dệt May (ATC) chấm dứt vào cuối năm 2004. Trước đây, trong giai đoạn 1974-1994, theo Hiệp định về thỏa thuận đa sợi (MFA), hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may được đàm phán song phương giữa các thành viên WTO, qua đó cho phép nhập khẩu hàng dệt may không chịu điều chỉnh hoàn toàn của GATT. Trong giai đoạn 1995-2004, Hiệp định ATC được thực hiện với vai trò là một công cụ chuyển đổi, giúp đưa các sản phẩm dệt may trở lại quy trình tự do hóa theo GATT 1994. Kể từ 01/01/2005, hàng dệt may xuất khẩu từ một nước thành viên WTO sang một nước thành viên khác sẽ không còn chịu hạn ngạch nữa. Như vậy, với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ không còn gặp phải vấn đề hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may nữa. Điều này giúp Việt Nam có nền tảng cạnh tranh công bằng hơn, ít nhất là về mặt pháp lý, với các nước sản xuất hàng dệt may khác như Ấn Độ, Băng-la-đét, Trung Quốc, v.v. Ngoài ra, hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may cũng chịu điều chỉnh của các quy định khác trong khung khổ của WTO như xử lý tranh chấp, tự vệ. Nếu cho rằng một đối tác thành viên khác vi phạm các quy định về thương mại của WTO, các nước có thể vận dụng cơ chế xử lý tranh chấp ở cấp độ đa phương, thay vì đơn phương thực hiện các biện pháp đáp trả. Kể từ vòng đàm phán Uruguay, quá trình xử lý tranh chấp đã được tổ chức tốt hơn, với các bước được quy định rõ ràng. Quy định về thời hạn xử lý tranh chấp cũng rõ ràng hơn, trong khi thời gian của các bước lại linh hoạt. Mặc dù vậy, các quốc gia liên quan cũng có thể tự đàm phán và xử lý tranh chấp. Cơ chế tự vệ cũng cho phép vận dụng những bảo hộ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu. Khi ấy, một thành viên WTO có thể tạm thời hạn chế nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó nếu ngành công nghiệp trong nước bị tổn thương hoặc bị đe dọa do nhập khẩu hàng hóa ấy gia tăng. Tuy nhiên, các biện pháp này ít được sử dụng, vì các chính phủ thường ưu tiên đàm phán song phương nhằm thuyết phục các nước đối tác tự nguyện hạn chế xuất khẩu. Ngoài các hiệp định trong khung khổ WTO, các hiệp định thương mại tự do khác mà Việt Nam tham gia ký kết và thực thi cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may. Đáng chú ý, các hiệp định thương mại tự do này chủ yếu được ký trong khung khổ của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các hiệp định thương mại này bao gồm Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), và Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Úc - Niu Dilân (AANZFTA). Ngoài ra, Việt Nam còn có Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) - có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu dệt may vào thị trường Nhật Bản. Cam kết thuế quan của một số thị trường chính Hộp 1: Các sản phẩm dệt may trong Hệ thống phân loại HS Các sản phẩm dệt may được phân loại theo các chương từ 50 đến 63 trong Hệ thống phân loại HS: Ch
Luận văn liên quan