Đề tài Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Tân Châu, tỉnh An Giang - Thực trạng và giải pháp

Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên mới của sự phát triển dựa trên cơ sở công nghệ thông tin và đi vào nền kinh tế tri thức, nhiều quốc gia đang trên đà phát triển phồn vinh. Tuy nhiên, tình trạng nghèo khổ cũng đang là thách thức lớn ở nhiều quốc gia. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) trở thành vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam XĐGN vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. XĐGN toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức XĐGN”. Mục tiêu chiến lược XĐGN thời kỳ 2001 - 2010 do Đại hội IX đề ra là: “Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả XĐGN”. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả chính sách XĐGN ; phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh số hộ giàu, từng bước xây dựng gia đình, cộng đồng và xã hội phồn vinh”.

doc111 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2826 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Tân Châu, tỉnh An Giang - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên mới của sự phát triển dựa trên cơ sở công nghệ thông tin và đi vào nền kinh tế tri thức, nhiều quốc gia đang trên đà phát triển phồn vinh. Tuy nhiên, tình trạng nghèo khổ cũng đang là thách thức lớn ở nhiều quốc gia. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) trở thành vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam XĐGN vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. XĐGN toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức XĐGN”. Mục tiêu chiến lược XĐGN thời kỳ 2001 - 2010 do Đại hội IX đề ra là: “Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả XĐGN”. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả chính sách XĐGN…; phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh số hộ giàu, từng bước xây dựng gia đình, cộng đồng và xã hội phồn vinh”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện XĐGN theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế… kết hợp chính sách của Nhà nước với sự trợ giúp trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn… có chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp trước hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ giàu đầu tư phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc XĐGN”. Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN. Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc công bố. Đồng thời theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17/10 là “Ngày vì người nghèo”, đó cũng là ngày Liên Hợp Quốc chọn là ngày thế giới chống nghèo đói. Tân Châu là huyện biên giới thuộc tỉnh An Giang, trong những năm qua huyện đã tích cực thực hiện chương trình XĐGN, từ đó đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như: Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN (giai đoạn 2001- 2005) bình quân mỗi năm 1% số hộ nghèo, thực hiện giải quyết việc làm, cho vay tín chấp hộ nghèo thông qua ký ủy thác của các cấp Hội đoàn thể với Ngân hàng Chính sách xã hội cũng góp phần rất lớn trong công tác XĐGN tại địa phương. Tính đến cuối năm 2006 hộ nghèo ở huyện Tân Châu chiếm tỷ lệ 6,87% [21]. Mặc dù tỉ lệ nghèo đói ở đây thấp hơn so với tỉ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh An Giang (tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh là 12,15%) [25], nhưng số hộ nằm sát ngưỡng nghèo, có nguy cơ tái nghèo lại rất cao. Vì vậy, XĐGN là vấn đề mà Đảng và chính quyền địa phương hết sức quan tâm, và là mục tiêu quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Việc nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, từ đó đưa ra giải pháp có tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn tại địa phương là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề XĐGN ở các khía cạnh khác nhau. Nhưng đáng chú ý là một số công trình sau: - Một số chính sách quốc gia về việc làm và XĐGN, H, Lao động, năm 2002. - Đoàn Văn Thuận, Mối quan hệ giữa XĐGN với đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn quận Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005. - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo “XĐGN vùng dân tộc thiểu số: phương pháp tiếp cận”, năm 2001. - Trần Thị Hằng, “Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Thống kê, năm 2001. - Thái Văn Hoạt, “Giải pháp XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay”, năm 2006. - Trần Đình Đàn, “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm XĐGN ở tỉnh Hà Tĩnh”, năm 2002. - Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang… “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001. - Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nẵng năm 2002. - Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam" năm 2004. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề XĐGN. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết luận văn của tác giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1 Mục đích nghiên cứu Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện XĐGN ở huyện Tân Châu. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề chung về nghèo đói và XĐGN. - Làm rõ thực trạng và diễn biến XĐGN ở huyện Tân Châu. kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trên. - Nêu mục tiêu và đưa ra một giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện XĐGN có hiệu quả trong những năm tới ở huyện Tân Châu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu là cơ chế tác động dưới góc độ quản lý Nhà nước nhằm XĐGN ở huyện Tân Châu. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề XĐGN trên địa bàn huyện Tân Châu, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Nhằm đánh giá khách quan, khoa học vấn đề XĐGN và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm XĐGN ở huyện Tân Châu, luận văn sử dụng một số phương pháp sau: - Phép biện chứng của triết học mácxít. - Các phương pháp kinh tế học như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp đồ thị… - Phương pháp xã hội học như: phân tổ điều tra, điều tra sâu, điều tra theo bảng câu hỏi… - Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác. 6. Những điểm mới của luận văn - Hệ thống những vấn đề chung về nghèo đói và XĐGN. - Phân tích thực trạng nghèo đói XĐGN. - Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng XĐGN trên địa bàn huyện Tân Châu. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm XĐGN ở huyện Tân Châu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1 QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN NGHÈO 1.1.1 Quan niệm về nghèo đói Ngay từ những ngày đầu khi cách mạng Tháng Tám vừa thành công, Chính phủ cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu vừa được thành lập, ngày đêm phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, nhưng cũng đã giành sự quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo cuộc sống cho người lao động nghèo khổ. Người kêu gọi toàn dân cùng Chính Phủ tập trung lực lượng để chống ba thứ giặc là: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, trong đó giặc đói Người đặt lên hàng đầu với lý do: “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước ta được độc lập mà dân không hưởng được tự do, hạnh phúc thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kiến quốc ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa nhấn mạnh đến bổn phận của Nhà nước phải chăm lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở và việc học hành. Người nói: Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: - Làm cho dân có ăn - Làm cho dân có mặc - Làm cho dân có chỗ ở - Làm cho dân có học hành Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập, và giúp sức cho tự do độc lập [17, tr.152]. Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, XĐGN đã trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, một trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay và về sau [15]. Thuật ngữ về nghèo đói là do người Việt Nam sử dụng để chỉ tình trạng nghèo và tình trạng đói. Vấn đề nghèo và đói là hai vấn đề khác nhau, có thể ở vào tình trạng đói mà không ở diện nghèo. Hoặc ở vào tình trạng đói lại thuộc diện nghèo hay ở nấc thấp nhất của nghèo. Ở đây luận văn xin đề cập đói ở nấc thấp của nghèo. Thông thường nói đến đói là hiểu tình trạng không đủ nhu cầu về ăn, nhu cầu sinh tồn của con người, còn nói đến nghèo là nói đến tình trạng khó khăn chung về việc không có khả năng đáp ứng các nhu cầu của con người như: nhà ở, ăn mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Trong các tài liệu quốc tế người ta thường sử dụng thuật ngữ tình trạng nghèo khổ hơn là tình trạng nghèo đói. Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, Tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen - Đan Mạch năm 1995 để đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la Mỹ mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”[13]. Tuy vậy, cũng có quan niệm khác về nghèo đói mang tính kinh điển hơn, triết lý hơn của chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) - ông Apapia Sen, Người được giải Nôben về kinh tế năm 1998, cho rằng “nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”. Như vậy có thể nói sự tồn tại của con người nói chung và người giàu, người nghèo nói riêng, cái khác nhau cơ bản để phân biệt họ chính là cơ hội lựa chọn của mỗi người trong cuộc sống, thông thường người giàu có cơ hội lựa chọn nhiều hơn, người nghèo có cơ hội lựa chọn ít hơn. Ngân hàng thế giới còn đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực. Tựu chung lại có hai loại khái niệm về nghèo như sau: Nghèo tuyệt đối: Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do Ủy ban kinh tế - xã hội Châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tháng 9/1993 tại Băng Cốc (Thái Lan) đã đưa ra khái niệm và định nghĩa về nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương”. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn để ngỏ về mặt lượng hóa (định lượng), bởi nó chưa tính đến những khác biệt và độ chênh lệch giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể qui định trình độ phát triển ở mỗi nơi. Quan niệm hạt nhân có trong định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy, con người không được hưởng và thỏa mãn. Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Theo hai khái niệm này, người nghèo là những người có nấc tận cùng bên dưới của thu nhập, tức là những người mà thu nhập thấp hơn một tỷ lệ phần trăm nào đó của thu nhập tính theo đầu người. Khái niệm nghèo tương đối gắn liền với ý niệm bất bình đẳng và hẫng hụt so với mức sống trung bình. Mức này khác nhau từ nước này sang nước khác, thậm chí từ vùng này, địa phương này sang vùng khác, địa phương khác. Nếu so sánh nghèo khổ giữa các quốc gia với nhau, người ta sử dụng khái niệm nghèo tương đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thì sử dụng khái niệm nghèo tuyệt đối. Cách chọn khái niệm tùy theo mục đích mà mình theo đuổi. Tuy nhiên cả hai khái niệm trên đều không hoàn toàn đầy đủ. Khái niệm nghèo tuyệt đối không tính đến sự khác nhau về mức sống ở các nước. Khái niệm nghèo tương đối không tính đến sự diễn biến của bối cảnh kinh tế - xã hội, do đó không tính đến diễn biến của những nhu cầu. Dựa vào các khái niệm trên,Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ như: Quan niệm về đói: Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần. Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt). + Đói kinh niên: Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. + Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét. + Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát... Như vậy đói là khái niệm dùng để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Giữa đói và nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau. Nếu nghèo kéo dài và không ra khỏi vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì dễ lâm vào tình trạng đói rách, cùng quẫn. Nghèo ở Việt Nam được chia làm 3 cấp độ: người nghèo, hộ nghèo và vùng nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 của Việt Nam đã căn cứ vào các cấp độ trên để đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ nghèo, vùng nghèo...và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. - Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. - Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. - Vùng nghèo: Là địa bàn nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao. Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay. 1.1.2 Tiêu chí xác định chuẩn nghèo 1.1.2.1 Tiêu chí xác định chuẩn nghèo thế giới Để xác định chuẩn nghèo có nhiều tiêu chí, chuẩn mực đánh giá khác nhau. Trên thế giới người ta lấy những chỉ tiêu: chất lượng cuộc sống (PQLI), chỉ tiêu phát triển con người (HDI), chỉ tiêu nhu cầu dinh dưỡng, chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người để làm các tiêu chí xác định chuẩn nghèo. Chỉ tiêu chất lượng cuộc sống: Bao gồm ba nhân tố cơ bản, đó là tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỷ lệ mù chữ. Chỉ tiêu phát triển con người: Do Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc đưa ra bao gồm hệ thống ba thành phần: tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm. Chỉ tiêu nhu cầu dinh dưỡng: Tính mức tiêu dùng quy ra kilocalo cho một người trong một ngày. Chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người: Đây là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Tại Đại hội lần thứ II của ủy ban giảm nghèo khổ khu vực (ESAP) họp tại Băng Cốc (Thái Lan), tháng 9 năm 1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370 USD/người/năm [29]. Sự kết hợp chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân theo đầu người, chỉ tiêu phát triển con người và chỉ tiêu chất lượng cuộc sống cho phép chúng ta nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác và khách quan hơn. Bởi nó cho phép đánh giá khách quan, toàn diện sự phát triển con người trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài các chỉ tiêu đánh giá trên, Ngân hàng thế giới (WB) còn dùng phương pháp đánh giá mới thiên về môi trường để xếp loại nước giàu, nước nghèo. Ngân hàng thế giới nhấn mạnh đến các nguồn lực thiên nhiên (bao gồm các tài sản tự nhiên như khoáng sản, đất trồng trọt và các khu vực thiên nhiên khác) việc bảo vệ môi trường, vấn đề giáo dục, sự linh hoạt, mềm dẻo về mặt xã hội và các tài sản nói chung thường ít được coi trọng nhưng là những công cụ cho sự phát triển lâu dài. Phương pháp mới này đã xếp hạng cao nhất cho những nước có lượng dân cư nhỏ, được đào tạo tương đối tốt, có các nguồn lực thiên nhiên dồi dào. Theo phương pháp này, mức giàu có trung bình toàn thế giới là 86.000 USD/người. Nước giàu nhất hiện nay là Australia với 835.000 USD/người/năm. Nước nghèo nhất là Etiôpia với mức 1.400 USD/người/năm theo bảng xếp hạng. Việt Nam xếp thứ 14 trong số 20 nước nghèo nhất với 2.600 USD/người/năm. 1.1.2.2 Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam Nước ta đã 5 lần điều chỉnh chuẩn nghèo từ 1993 - 2006 - Giai đoạn 1993 - 1995: Hộ đói: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13kg đối với thành thị, dưới 8 kg đối với khu vực nông thôn. Hộ nghèo: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20 kg đối với khu vực thành thị và dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn. - Giai đoạn 1995 - 1997: Hộ đói: là hộ có thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng quy ra gạo dưới 13 kg, tính cho mọi vùng. Hộ nghèo: là hộ có thu nhập như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng. + Vùng thành thị: dưới 25kg/người tháng. - Giai đoạn 1997 - 2000 (Công văn số 175/LĐTBXH): Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng quy ra gạo dưới 13kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính cho mọi vùng). Hộ nghèo: là hộ có thu nhập tùy theo từng vùng ở các mức tương ứng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương đương 55.000 đồng). + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương đương 70.000 đồng). + Vùng thành thị: dưới 25kg/người /tháng (tương đương 90.000 đồng). - Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/ 2000/ QĐ-LĐTBXH): + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng. + Vùng thành thị: 150.000 đồng/người /tháng. - Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/ 2005/ QĐ-TTg): + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng. + Vùng nông thôn (cả miền núi và đồng bằng): 200.000 đồng/người/tháng. + Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/ tháng Trước năm 2006 chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn đồng bằng cao hơn chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn miền núi, mức chênh lệch là 1,25 lần. Khi áp dụng chuẩn nghèo chung cho vùng nông thôn đồng bằng và nông thôn miền núi điều này sẽ có lợi hơn cho người dân khu vực nông thôn miền núi. Đây cũng là sự thể hiện quan điểm bình đẳng hơn, toàn diện hơn và bền vững hơn xét về khía cạnh xác định chuẩn nghèo. Khu vực thành thị chuẩn nghèo mới cao gấp 1,73 lần chuẩn nghèo cũ, tương đương với 2,8 đô la Mỹ một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005. Khu vực nông thôn đồng bằng chuẩn nghèo mới cao gấp 2 lần chuẩn nghèo cũ; khu vực nông thôn miền núi chuẩn nghèo mới cao gấp 2,5 lần, tương đương 2,2 đô la Mỹ một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005. Sau 20 năm đổi mới, thu nhập và mức sống của đại đa số người dân đã được cải thiện, do vậy đối tượng nghèo đói cũng có sự thay đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.doc
  • docbia ngoai.doc
Luận văn liên quan