Đề tài Xuất khẩu chè - Hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam

Diện tích chè của cả nớc hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82 nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh chiếm 65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ bản là 12,6 nghìn ha. Sản lợng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000, đạt kim ngạch xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tơi năm 1999 là 4,46 tấn/ ha. Đó là một thành tựu đáng kể của ngành chè Việt Nam trong công cuộc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trờng sinh thái, giải quyết việc làm cho ngời lao động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó. Năm 2001, xuất khẩu đợc 40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm 2002 sẽ xuất khẩu đợc 56 ngàn tấn

pdf26 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2627 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu chè - Hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam PHẦN II: NỘI DUNG CHƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM. I.VAI TRÒ XUẤT KHẨU CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN. 1.Sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam. Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nớc ta bớc vào một thời kỳ đổi mới. Sau khi tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trớc nh: Liên kết công nông nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp công nông nghiệp - sản xuất chè ở trung du miền núi nh: Phú Thọ, Yên Bái) cải tiến hệ thống sản xuất và tổ chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành chè bắt đầu bớc vào một giai đoạn tiến hành những thử nghiệm và đổi mới kinh tế một cách căn bản và hệ thống. Chè là loại cây công nghiệp dài ngày đợc trồng ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đã đáp ứng đợc nhu cầu về chè uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch hàng triệu USD hàng năm. Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời sống ngời làm chè gặp nhiều khó khăn nhng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và tạo việc làm cho ngời lao động, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân ở các vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy việc phát triển sản xuất chè là một hớng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn nớc ta. Biểu 1: Lực lợng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm 2000.- 2010 Đơn vị tính: Nghìn tấn Năm Sản phẩm 2000 2001 2002* 2010* Sản lợng chè búp tơi 30 450-500 Sản lợng chè búp khô 12 58 150-180 Xuất khẩu 55 40 56 110 Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam, Ghi chú * số ớc tính và dự báo Diện tích chè của cả nớc hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82 nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh chiếm 65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ bản là 12,6 nghìn ha. Sản lợng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000, đạt kim ngạch xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tơi năm 1999 là 4,46 tấn/ ha. Đó là một thành tựu đáng kể của ngành chè Việt Nam trong công cuộc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trờng sinh thái, giải quyết việc làm cho ngời lao động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó. Năm 2001, xuất khẩu đợc 40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm 2002 sẽ xuất khẩu đợc 56 ngàn tấn. 2.Vị trí của ngành chè trong nền kinh tế quốc dân. Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm. Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng trăm năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối Giàng (Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 - 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của cây chè. Chè là thứ nớc uống có nhiều công cụ, vừa giải khát, vừa chữa bệnh. Ngời ta tìm thấy trong chè có tới 20 yếu tố vi lợng có lợi cho sức khoẻ, ví dụ cafein kích thích hệ thần kinh trung ơng, tamin trị các bệnh đờng ruột và một số axit amin cần thiết cho cơ thể. Chè đợc trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh tơng đối cao. Một ha chè thu đợc 5 - 6 tấn chè búp tơi, có giá trị ngang với một ha lúa ở đồng bằng và gấp 3 - 4 lần một ha lúa nơng. Vì vậy có thể nói cây chè là cây "xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền núi bảo vệ an ninh biên giới”. Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lợng lao động khá lớn (hơn 22 nghìn lao động chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch vụ là gần 300 nghìn ngời với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu nhập bình quần quân toàn ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/ngời/tháng, năm 9 tăng lên 350 nghìn ngời/tháng). Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi trờng sinh thái. Với phơng châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào giữa các hàng chè để giữ mùn giữ nớc, sử dụng phân bón hợp lý ngành chè đã gắn kết đợc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trờng. Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn. + Một ha chè thâm canh thu hoạch đợc 10 tấn búp tơi chế biến đợc hơn 2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu đợc một lợng ngoại tệ tơng đơng với khi xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học. + Trên thế giới có khoảng 30 nớc trồng chè nhng có tới 100 nớc uống chè. Nh vậy tiềm năng về thị trờng của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên, tốc độ phát triển cây chè của nớc ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt Nam xuất khẩu 2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Đến nay, Việt Nam xuất khẩu đợc hơn 20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong vòng 60 năm, sản lợng xuất khẩu của nớc ta tăng 8 lần những vị trí đã tụt đến 10 bậc. + Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhỡng, khí hậu rất thích hợp với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi hiện nay ta mới chỉ trồng đợc khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là lợi thế so sánh của nớc ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm lâu đời trong trồng về chế biến chè. Tóm lại, có thể kim ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo) nhng xét đến những tác động tích cực của nó về mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới. 3. Vai trò của xuất khẩu chè Chè là một cây công nghiệp dài ngày, thích hợp với khí hậu và đất đai ở miền núi phía bắc và trung du của nớc ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi cho chúng ta việc xuất khẩu đã có một số vai trò rất quan trọng nh: - Để phục vụ cho việc xuất khẩu chè thì trớc hết chúng ta phải có các vùng chuyên trồng cây chè, nh đồi núi ở trên thì cây chè thờng phân bố ở trung du và miền núi. Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy cây chè đã trở thành một trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá đói giảm nghèo, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những ngời sống ở khu vc này, tránh đợc hiện tợng nông nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một lợng thu nhập đáng kể cho những ngời trồng chè, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân ở vùng miền núi vốn rất khó khăn và cuộc sống rất cực nhọc. Do vậy việc xuất khẩu chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho ngời lao động. Không những nó có vai trò về kinh tế mà nó còn có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định c của các ngời trồng chè trên những vùng cao và hẻo lánh đã đảm bảo đợc an ninh biên giới của nớc ta. Việc trồng chè để xuất khẩu cũng có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trờng sinh thái. Nh chúng ta đã biết hiện nay hoạt động chặt phá rừng ngày càng diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du c chặt nơng phá rẫy của một số các đồng bào dân tộc đã hủy hoại môi trờng sống của chúng ta. Việc trồng chè để phục vụ xuất khẩu đã phủ xanh đất trống đồi núi trọc, còn góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dụng trong ngành y học. - Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nớc, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc.Chè là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nớc ta, hàng năm mang về cho đất nớc rất nhiều ngoại tệ để thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc nh: Năm 2000 đã xuất khẩu đợc 45 ngàn tấn mang về cho đất nớc khoảng 56 triệu USD, năm 2001 đã xuất khẩu đợc 40000 tấn tăng 9,94% so với năm 2000 đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu đợc 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.Tuy nhữmg con số này vẫn cha thực cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những xuất khẩu chè cũng đã đóng góp một nguồn vốn đáng kể cho đất nớc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khi xuất khẩu chè thì chúng ta sẽ mở rộng đợc thị trờng tiêu thụ và giao lu học hỏi đợc nhiều bài học kinh nghiệm của các nớc bạn. Hiện nay chúng ta xuất khẩu sang hơn 40 nớc khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nớc nói chung, xuất khẩu chè ra nhiều thị trờng thì làm cho các doanh nghiệp của chúng ta có thể tiếp thu đợc các thông tin nhanh hơn, và sáng tạo hơn. Xuất khẩu chè thì chúng ta đã tạo ra sự ổn định cho những ngời trồng chè về mặt tiêu thụ sản phẩn từ đó họ yên tâm hơn với công việc của mình. Do đó chất lợng chè cũng phần nào đợc cải thiện từ đó nâng cao đợc khả năng cạnh tranh chè của nớc ta trên thị trờng thế giới. Và khi có thị trờng tiêu thụ ổn định thì ngời trồng chè sẽ yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn. II.NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ 1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè. a.Mang đặc điểm của ngành sản xuất nông sản phẩm. - Tính thời vụ: cũng nh tất cả các loại nông sản khác thì cây chè cũng mang tính thời vụ rõ ràng, có thời gian sinh trởng theo mùa, thờng thì cây chè cho thu hoạch vào mùa hè, không phải mùa nào cây chè cũng cho chúng ta thu hoạch. Do vậy chúng ta cần nắm rõ các quy luật sản xuất mặt hàng chè. Làm tốt công tác chuẩn bị trớc mùa thu hoạch, đến kỳ thu hái là phải chuẩn bị đầy đủ lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm. - Tính khu vực: chúng ta cũng biết cây chè không phải là cây trồng ở đâu cũng có thể sống và cho chất lợng tốt. Ở nớc ta thì cây chè tập trung ở vùng núi phía Bắc và Trung Du, nói chung là tập trung ở những vùng cao, và đợc trồng ở các nông trờng và do nông dân tự trồng hay trồng theo kiểu giao khoán của Tổng công ty chè Việt Nam. Do đặc điểm này vấn đề đặt ra là việc bố trí địa điểm thu mua, phơng thức thu mua, chế biến và vận chuyển phải phù hợp với đặc điểm này. - Tính tơi sống: Cây chè là một loài thực vật nên cũng rất dễ bị hỏng, kém chất lợng, tuỳ theo địa hình và khí hậu ở các nơi khác nhau mà cho chất lợng chè của chúng ta cũng khác nhau, và ở nớc ta thì chè đợc trồng ở Thái Nguyên có chất lợng tơng đối là tốt. Vì vậy khi chúng ta thu mua cần lu ý phân loại, tốt nhất là chế biến ngay sau khi thu hoạch là tốt nhất. - Tính không ổn định: Chè cũng giống nh lúa và nhiều loại nông sản khác thờng không ổn định sản lợng lên xuống thất thờng, vùng này đợc mùa vùng kia mất mùa. Bởi có ý do này là do cây chè cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khi khí hậu không phù hợp với cây chè thì nó sẽ cho chất lợng kém và sản lợng không cao nh các năm mà thời tiết u đãi. b. Đặc điểm riêng của ngành chè. Cây chè thờng phân bố ở các đồi núi và cao nguyên. Do đặc điểm này mà nớc ta có thể nói có điều kiện rất thuận lợi cho việc sản xuất và trồng cây chè. Cũng do đặc điểm này thì yêu cầu đối với ngành chè cần phải có một trình độ thâm canh rất tốt và phải phù hợp với điều kiện và khí hậu ở các vùng cao này Ngành chè đòi hỏi phải có một hệ thống thuỷ lợi tốt và hiện đại để có thể đa nớc lên cao phù hợp với đặc điểm sinh sống của cây chè phục vụ cho việc tới tiêu thuận lợi nhất. Công nghệ chế biến chè phải hiện đại đảm bảo đợc chất lợng chè theo đúng tiêu chuẩn. Không giống nh các mặt hàng nông sản khác nh luá, bông.. chè thì cần phải có một quy trình chế biến và bảo quản đúng quy cách và đúng kỹ thuật và nguyên liệu phải đa vào chế biến ngay nếu để lâu sẽ ảnh hởng đến chất lợng chè, lãng phí nguyên liệu Kỹ thuật chăm sóc cây chè cũng rất phức tạp từ khâu chọn giống tốt đến làm đất trồng hom, đều phải đúng theo quy trình kỹ thuật và điều này ảnh hởng đến sự phát triển của cây chè sau này, mà cây chè không giống nh nhiều cây nông sản khác chỉ trồng một vụ thì vụ sau lại trồng lại, nhng cây chè thì có tuổi thọ cao thờng vài chục năm, nên nếu làm tốt công đoạn gieo trồng tốt thì cây chè sẽ phát triển tốt và cho năng suất cao, tuổi thọ sẽ đợc kéo dài. 2. Các yếu tố ảnh hởng đến chất lợng chè Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lợng chè búp tơi đợc quyết định bởi các yếu tố: * Giống chè: Có nhiều giống chè nhng một số giống chính đã chiếm phần lớn diện tích. Phía Bắc trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và PH1 ở vùng thấp. Ngoài ra còn có các giống mới khác nh: LĐP1, LĐP2, TR777, Vân Xơng, Bát Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật đang khảo nghiệm, chiếm diện tích cha đáng kể. Phía Nam có các giống Shan, Ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lợng khá, còn lại các giống Trung du và PH1 cho năng suất khá nhng chất lợng không cao, vị chè hơi đắng, hơng kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè đã có nhiều cố gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống nhằm tạo ra một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn chậm. Có thể nói giống chè ảnh hởng không nhỏ đến chất lợng chè xuất khẩu, hiện nay chúng ta vẫn cha có nhiều giống chè có năng suất và chất lợng cao ngoại trừ chè Shan. * Quy trình thâm canh: Đầu t cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, đầu t cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu đồng/ ha đạt 80%. Ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có vờn chè nhiều năm không đợc bón phân. Quy trình kỹ thuật cha đợc thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân cha đủ, thiếu cân đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lợng. Cơ cấu phân bón nh vậy không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, giảm hơng thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón phân cân đối đã tạo nên chất lợng chè rất đặc trng nh Mộc Châu, Thanh Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lợng, chủng loại và quy trình. Hậu quả là d lợng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vợt quá mức cho phép; qua kiểm tra sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có d lợng thuốc trừ sâu cao. * Thu hái: Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tơi sẽ đợc dùng làm nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lợng, việc hái chè phải tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tơi không theo tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nớc, điển hình là ở những vùng buôn bán chè sôi động nh Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. Ở những vùng này, vào thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua đợc chè B, thậm chí cả chè C nếu xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già ( 5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng h hỏng và tất cả dẫn đến chất lợng thấp, hàng kém sức cạnh tranh. * Vận chuyển: Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến cũng đã đợc bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính vì vậy, vận chuyển chè búp tơi có ảnh hởng rất lớn tới chất lợng sản phẩm. Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhợc điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thờng chỉ 2 lần/ ngày ( so với Ấn Độ là 4 - 6 lần/ ngày ), nên chè thờng bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát. 3. Môi trờng chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nớc. Môi trờng chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh hởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai bên đợc thc hiện. Chính vì vậy, trớc khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các quy định của chính phủ các nớc liên quan, tập quán và luật pháp quốc tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Trong nhiều trờng hợp yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn thị trờng xuất khẩu. Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một nớc nào đó thì chúng ta cần hiểu con ngời và luật pháp ở nớc đó, cũng phải tìm hiểu xem tình hình chính trị ở nớc đó nh thế nào có ổn định hay không, ngời dân ở đó có hay uống chè hay không. Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nớc ta sau đại hội Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nớc ta đã thực hiện chủ trơng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đã chủ chơng thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các ngành các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn nhận một cách khách quan rằng những chủ trơng của Đảng và Nhà nớc vẫn cha đợc thực hiện một cách có hiệu quả. Nhiều mặt hàng không cần phải xuất khẩu qua đầu mối những vẫn phải qua đầu mối, vừa không những không phát huy đợc thế mạnh của các doanh nghiệp vừa không phù hợp với cam kết quốc tế mà nớc ta đã ký trong thời gian qua. Doanh nghiệp cha thực sự làm chủ khi xuất khẩu. Các chính sách của nhà nớc về xuất khẩu nh thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu. -Thuế quan: thực chất là dùng thuế này để đánh vào các mặt hàng xuất khẩu, nhng hiện nay nhà nớc đã quy định một số mặt hàng khi xuất khẩu không phải chịu thuế trong đó có mặt hàng chè và điều này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tham gia vào việc xuất khẩu. -Hạn ngạch xuất khẩu: quy định của nhà nớc về hạn chế xuất khẩu số lợng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trờng nào đó trong một thời gian nhất định (thờng là một năm ). Nh vậy, rõ ràng nếu doanh nghiệp xuất khẩu một hay nhiều sản phẩm nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì tất yếu hạn ngạch đợc cấp nhiều hay ít sẽ kéo theo quy mô kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp tăng hay giảm. Và nếu chúng ta nhìn vào ngành chè thì việc hạn ngạch này hầu nh không áp dụng đối với xuất khẩu chè. -Giấy phép xuất khẩu: Một số mặt hàng nhà nớc quy định trớc khi xuất khẩu thì phải xin giấy phép xuất khẩu, việc này chỉ áp dụng đối với những mặt hàng mà nhà nớc quy định, và những mặt hàng này nhà nớc không khuyến khích xuất khẩu, hay liên quan đến việc an ninh quốc phòng của một đất nớc. Còn đối với việc xuất khẩu chè thì chúng ta không phải xin giấy phép xuất khẩu vì chè nằm trong những mặt hàng đợc nhà nớc khuyến khích xuất khẩu. Việc này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tiến hành xuất khẩu và ở nớc ta việc xuất khẩu chè thờng do Tổng công ty chè đảm nhiện. 4. Hệ thống tài chính của nhà nớc Có thể nói hệ thống tài chính có ảnh hởng rất lớn đến xuất khẩu nói chung và xuất khẩu chè nói riêng, nó thể hiện ở các mặt sau: - Các chính sách tài chính mà thông thoáng thì việc vay tiền hỗ trợ cho việc sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sẽ trở nên dễ dàng và ngợc lại nếu hệ thống tài chính qua phức tạp thì việc vay vốn của các công ty rất khó vì vậy nó ảnh hởng đến việc sản xuất và xuất khẩu của các công ty. Nh chúng ta đã biết cây chè thì chủ yếu do các nông trờng và ngời dân trồng. Nếu là những ngời dân thì việc có thể vay đợc vốn của các ngân hàng mà đầu t để phát triển cây chè thì đó là một điều đáng mừng vì hầu hết các ngời dân không có vốn chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nớc. Nhng thực tế hiện nay khâu nay vẫn có nhiều vấn đề nay sinh và cha đáp ứng đợc những nhu câù của nhân dân thủ tục vay vốn quá phức tạp. Mặc dù hiện nay chúng ta đã có quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhng tác dụng của quỹ này cha cao
Luận văn liên quan