Đồ án Hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 bằng ảnh vệ tinh SPOT-5

Công nghệ hiện chỉnh bản đồ địa hình bằng ảnh hàng không đã và đang trở thành công nghệ truyền thống ở Việt Nam cũng như trên nhiều quốc gia khác trên thế giới. Từ trước đến nay chúng ta sử dụng ảnh hàng không làm nguồn tư liệu chính và ảnh hàng không đã đáp ứng được yêu cầu về độ chính xác thành lập bản đồ. Nhưng với đòi hỏi của thực tế hiện nay thì sử dụng ảnh hàng không cho mục đích thành lập hoặc hiện chỉnh bản đồ đã có nhiều hạn chế do tính thời sự của ảnh. Trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đặc biệt là khoa học vũ trụ thì việc ứng dụng công nghệ hiện chỉnh bản đồ địa hình bằng ảnh vệ tinh ngày càng rộng rãi và đã phát huy được những hiệu quả rất lớn trong việc làm mới nội dung bản đồ. Tuy nhiên, lĩnh vực hiện chỉnh bản đồ trong thực tiễn sản xuất vẫn còn nhiều vướng mắc như vấn đề đa dạng của tài liệu bản đồ gốc hiện có, vấn đề về việc lựa chọn quy trình công nghệ nào để áp dụng cho phù hợp với con người, máy móc trang bị, phần mềm.Thực tế các sản phẩm hiện chỉnh bản đồ đã được đưa vào sử dụng, song số lượng chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của tất cả các lĩnh vực. Vì vậy đòi hỏi phải đưa ra một quy trình công nghệ hiện để hiện chỉnh bản đồ địa hình trong thời gian ngắn nhất nhưng vẫn đảm bảo được tính kinh tế - kỹ thuật. Để giải quyết tính cấp thiết đó em đã tham gia nghiên cứu đề tài: “Hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 bằng ảnh vệ tinh SPOT-5”. Nội dung chính của đề tài này được trình bày trong bốn chương: Chương 1: Bản đồ địa hình và các phương pháp hiện chỉnh bản đồ địa hình Chương 2: Tư liệu viễn thám và khả năng ứng dụng trong công tác hiện chỉnh bản đồ địa hình

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 bằng ảnh vệ tinh SPOT-5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục lời nói đầu Kết luận Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Công nghệ hiện chỉnh bản đồ địa hình bằng ảnh hàng không đã và đang trở thành công nghệ truyền thống ở Việt Nam cũng như trên nhiều quốc gia khác trên thế giới. Từ trước đến nay chúng ta sử dụng ảnh hàng không làm nguồn tư liệu chính và ảnh hàng không đã đáp ứng được yêu cầu về độ chính xác thành lập bản đồ. Nhưng với đòi hỏi của thực tế hiện nay thì sử dụng ảnh hàng không cho mục đích thành lập hoặc hiện chỉnh bản đồ đã có nhiều hạn chế do tính thời sự của ảnh. Trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đặc biệt là khoa học vũ trụ thì việc ứng dụng công nghệ hiện chỉnh bản đồ địa hình bằng ảnh vệ tinh ngày càng rộng rãi và đã phát huy được những hiệu quả rất lớn trong việc làm mới nội dung bản đồ. Tuy nhiên, lĩnh vực hiện chỉnh bản đồ trong thực tiễn sản xuất vẫn còn nhiều vướng mắc như vấn đề đa dạng của tài liệu bản đồ gốc hiện có, vấn đề về việc lựa chọn quy trình công nghệ nào để áp dụng cho phù hợp với con người, máy móc trang bị, phần mềm...Thực tế các sản phẩm hiện chỉnh bản đồ đã được đưa vào sử dụng, song số lượng chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của tất cả các lĩnh vực. Vì vậy đòi hỏi phải đưa ra một quy trình công nghệ hiện để hiện chỉnh bản đồ địa hình trong thời gian ngắn nhất nhưng vẫn đảm bảo được tính kinh tế - kỹ thuật. Để giải quyết tính cấp thiết đó em đã tham gia nghiên cứu đề tài: “Hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 bằng ảnh vệ tinh SPOT-5”. Nội dung chính của đề tài này được trình bày trong bốn chương: Chương 1: Bản đồ địa hình và các phương pháp hiện chỉnh bản đồ địa hình Chương 2: Tư liệu viễn thám và khả năng ứng dụng trong công tác hiện chỉnh bản đồ địa hình Chương 3: Quy trình công nghệ hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 bằng ảnh vệ tinh SPOT-5 Chương 4: Kết quả thực nghiệm sử dụng ảnh vệ tinh SPOT-5 để hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 25.000 Trong thời gian làm đồ án tốt nghiệp với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Trần Xuân Trường cùng sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo khoa Trắc địa, bộ môn Đo ảnh và Viễn thám, các anh chị cán bộ trong Cục bản đồ- Bộ Tổng Tham Mưu và cùng với sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành cuốn đồ án này. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do kiến thức chuyên môn còn hạn chế, thời gian nghiên cứu đề tài có hạn nên trong đồ án không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các anh chị cán bộ kỹ thuật và các bạn đồng nghiệp để đồ án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 3 năm 2012 Sinh viên thực hiện Nguyễn Nguyên Anh - Bản đồ địa hình và các phương pháp hiệN chỉnh bản đồ địa hình Khái niệm về bản đồ địa hình 1.1.1 Khái niệm Bản đồ địa hình (BĐĐH) là hình ảnh thu nhỏ được khái quát hoá một phần hay toàn bộ bề mặt trái đất lên mặt phẳng theo một phép chiếu nhất định (phép chiếu đồng góc, phép chiếu đồng diện tích, phép chiếu đồng khoảng cách...) trong một hệ thống toạ độ, độ cao biểu thị bằng hệ thống kí hiệu phản ánh sự phân bố, trạng thái và các mối quan hệ tương quan nhất định giữa các yếu tố cơ bản của địa lý tự nhiên và kinh tế xã hội với độ chính xác và mức độ chi tiết phù hợp với tỷ lệ bản đồ cần thành lập. Nó phản ánh các yếu tố nội dung cơ bản như thuỷ hệ, điểm dân cư, mạng lưới giao thông, dáng đất, lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng và ranh giới hành chính. Hiện nay BĐĐH được lưu trữ và thành lập với hai dạng cơ bản đó là BĐĐH trên giấy và BĐĐH gốc dạng số: + BĐĐH trên giấy là bản đồ truyền thống, các thông tin được thể hiện và lưu trữ toàn bộ trên giấy dựa trên hệ thống các ký hiệu và ghi chú. BĐĐH trên giấy cho ta thông tin rõ ràng, trực quan, dễ sử dụng cho nhiều đối tượng. Ngày nay BĐĐH trên giấy là sản phẩm được in ấn từ bản đồ địa hình dạng số. + BĐĐH gốc dạng số có nội dung lưu trữ dưới dạng số theo các lớp thông tin trong máy tính. Các thông tin không gian lưu trữ dưới dạng toạ độ (x,y), các thông tin thuộc tính được mã hoá và lưu trữ dưới dạng bảng tính. Bản đồ số địa hình được hình thành trên cơ sở hai yếu tố của công nghệ thông tin là: thiết bị phần cứng và các phần mềm máy tính. BĐĐH dạng số giúp cho công tác quản lý, khai thác cũng như cập nhật các thông tin địa hình dễ dàng hơn, nó cho phép người làm công tác quy hoạch, thiết kế thực hiện trực tiếp trên máy tính một cách chính xác và nhanh chóng. 1.1.2 ý nghĩa và mục đích sử dụng của bản đồ địa hình BĐĐH nói chung có ý nghĩa là một nền đồ hoạ về bề mặt trái đất, cho ta khả năng nhận thức bề mặt đó bằng cái nhìn bao quát, tổng quát, đọc chi tiết hoặc đo đếm chính xác. Dựa vào BĐĐH có thể nhanh chóng xác định toạ độ, độ cao của bất kỳ điểm nào trên mặt đất, khoảng cách và phương hướng giữa hai điểm, chu vi, diện tích và khối lượng của một vùng, cùng hàng loạt những thông số khác với độ chính xác phù hợp với tỷ lệ bản đồ. BĐĐH có vai trò rất quan trọng trong các ngành khoa học kỹ thuật và trong công tác quản lý quy hoạch bao gồm: trong xây dựng công nghiệp, năng lượng, giao thông và các công trình khác. BĐĐH có nhiều tỷ lệ và ở mỗi loại tỷ lệ thì ta lại sử dụng với những mục đích khác nhau: + Các BĐĐH tỷ lệ 1:500, 1:1.000, 1:2.000 và 1:5.000 (BĐĐH tỷ lệ lớn) thường được dùng để thiết kế mặt bằng các thành phố, các điểm dân cư, các tuyến đường giao thông, thuỷ lợi; để lập thiết kế kỹ thuật các tuyến đập thuỷ điện; dùng để tiến hành các công tác thăm dò chi tiết và tính toán trữ lượng các khoáng sản có ích, dùng trong các công tác quy hoạch và cải tạo ruộng đồng và dùng để tính toán khối lượng đào đắp, lập mô hình huấn luyện trong quân sự. + Các BĐĐH tỷ lệ 1:10.000 và 1:25.000 (BĐĐH tỷ lệ trung bình) thường dùng trong công tác quy hoạch ruộng đất và làm cơ sở để đo vẽ thổ nhưỡng, thực vật; dùng để thiết kế sơ bộ các công trình thủy nông, dùng trong công tác quản lý ruộng đất, dùng để chọn nơi xây dựng các trạm thủy điện, dùng trong công tác thăm dò địa chất, dùng để chọn các tuyến đường sắt và đường ôtô, dùng trong công tác quy hoạch và cải tạo riêng, dùng để khảo sát các phương án xây dựng thành phố,... + Các BĐĐH tỷ lệ 1:50.000 và 1:100.000 (BĐĐH tỷ lệ nhỏ) thường được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế quốc dân. Chúng thường có những tác dụng sau: dùng trong công tác quy hoạch và tổ chức các vùng kinh tế, dùng để chọn sơ bộ các tuyến đường sắt, đường ôtô và kênh đào giao thông; dùng để nghiên cứu các vùng về mặt địa chất, thủy văn,... Bản đồ tỷ lệ 1:100.000 là cơ sở địa lý để thành lập các bản đồ chuyên đề như bản đồ địa chất, bản đồ thổ nhưỡng và một số bản đồ khác như bản đồ thiết kế bay chụp trong chụp ảnh hàng không. Như vậy, với mỗi mục đích sử dụng BĐĐH nêu trên lại đưa ra những yêu cầu riêng về tỷ lệ, độ chính xác và nội dung của BĐĐH. Khi thành lập BĐĐH phải đảm bảo: bản đồ phải rõ ràng, dễ đọc, cho phép định hướng nhanh chóng ở thực địa. Bên cạnh đó còn phải bảo đảm các yếu tố biểu thị trên bản đồ cần phải đầy đủ, chính xác. Mức độ tỉ mỉ của nội dung bản đồ cần phải phù hợp với tỷ lệ thành lập, mục đích sử dụng và đặc điểm của khu vực đo vẽ. Cơ sở toán học của bản đồ địa hình BĐĐH được thành lập trên cơ sở toán học nhất định, cơ sở toán học của bản đồ địa hình bao gồm các yếu tố: tỷ lệ, phép chiếu, sự phân mảnh, hệ thống toạ độ, điểm khống chế trắc địa trên BĐĐH. 1.2.1 Tỷ lệ bản đồ Tỷ lệ bản đồ xác định mức độ thu nhỏ của bề mặt Trái đất khi biểu thị lên bản đồ, tỷ lệ bản đồ là tỷ số giữa chiều dài một đoạn thẳng trên bản đồ và chiều dài thực của nó ngoài thực địa. Có 3 phương pháp thể hiện tỷ lệ : - Tỷ lệ số: Thể hiện bằng một phân số mà tử số bằng 1 còn mẫu số là số cho thấy mức độ thu nhỏ của bề mặt trái đất, tỷ lệ này thường được viết dưới dạng 1:1000 hoặc 1/1000. - Tỷ lệ chữ: Nêu rõ một đơn vị chiều dài trên bản đồ tương ứng với khoảng cách là bao nhiêu ở ngoài thực địa, tỷ lệ này được ghi là: 1cm trên bản đồ tương ứng với giá trị nhất định theo tỷ lệ. - Thước tỷ lệ: Là hình vẽ có thể dùng nó để đo trên bản đồ khi in, có thể đo khoảng cách, độ chênh cao trên bản đồ. 1.2.2 Cơ sở lưới chiếu BĐĐH hiện nay được thành lập theo phép chiếu UTM (phép chiếu hình trụ ngang đồng góc). Elipxoid quy chiếu quốc gia là Elipxoid WGS-84 toàn cầu được xác định (định vị) phù hợp với lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở sử dụng các điểm GPS cạnh dài có độ cao thủy chuẩn phân bố đều trên lãnh thổ. Trong đó Elipxoid WGS-84 có kích thước: Bán trục lớn : a = 6378137.0 m Độ dẹt : a = 1: 298.257223563 Tốc độ quay quanh trục: w = 729115.10-11 radian/s Kinh tuyến gốc (00) được quy ước là kinh tuyến đi qua đài thiên văn Greenuyt. Điểm gốc của hệ tọa độ mặt phẳng có X = 0 km, Y = 500 km (chuyển trục Y về phía Tây 500 km so với kinh tuyến trục của múi chiếu). Điểm gốc của hệ độ cao là điểm độ cao ở Hòn Dấu - Hải Phòng. Điểm gốc tọa độ quốc gia: Điểm N00 đặt tại Viện Nghiên Cứu Đo đạc và Bản đồ. Các công thức và thông số tính chuyển hệ tọa độ phẳng của phép chiếu Gauss-Kruger sang UTM: XUTM = K0.XG YUTM = K0.(YG -500.000) + 500.000 gUTM = gG MUTM = K0.MG Trong đó: K0 = 0.9996 dùng cho múi chiếu 60 K0 = 0.9999 dùng cho múi chiếu 30 XUTM,YUTM là tọa phẳng của lưới chiếu UTM XG, YG là tọa độ phẳng của lưới chiếu Gauss-Kruger gUTM, gG là góc lệch kinh tuyến tương ứng của lưới chiếu UTM và lưới chiếu Gauss-Kruger. MUTM, MG là tỷ lệ biến dạng chiều dài tương ứng của lưới chiếu UTM và Gauss-Kruger. 1.2.3 Chia mảnh và đánh số hiệu bản đồ địa hình Việc chia mảnh, đặt phiên hiệu và tên của mảnh BĐĐH thực hiện theo thông tư số 973/2001/TT-TCĐC ngày 20 tháng 6 năm 2001 của Tổng cục địa chính nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường về “Hướng dẫn áp dụng hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia VN- 2000”. Bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25.000 nằm trong hệ thống bản đồ địa hình cơ bản của Việt Nam nên sự phân mảnh và đánh số hiệu được quy định cụ thể như sau: Mỗi mảnh bản đồ tỷ lệ 1:50.000 chia thành 4 mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000, mỗi mảnh có kích thước 7’30”7’30”, ký hiệu bằng a, b, c, d theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Hệ thống UTM quốc tế không phân chia các mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 và lớn hơn. Phiên hiệu mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 gồm phiên hiệu mảnh bản đồ tỷ lệ 1:50.000 chứa mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 đó, gạch nối và sau đó là ký hiệu mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 trong mảnh bản đồ tỷ lệ 1:50.000. Ví dụ mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 có phiên hiệu F-48-68-D-d. Hình 1.1: Sơ đồ phân mảnh và đặt phiên hiệu bản đồ địa hình Nội dung của bản đồ địa hình Trên mặt đất có rất nhiều yếu tố địa hình địa vật lớn không thể biểu thị nguyên vẹn trên bản đồ, đồng thời có những yếu tố nhỏ nhưng quan trọng mà không thể biểu thị được trong tỷ lệ của bản đồ cần thành lập. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố hình dạng giống nhau nhưng bản chất khác nhau; ngược lại có nhiều yếu tố với bản chất giống nhau nhưng hình dạng khác nhau. Vì vậy, để thể hiện tất cả các yếu tố địa vật trên bề mặt Trái đất lên bản đồ cần phải dùng hệ thống ký hiệu bản đồ để biểu thị. Các yếu tố nội dung BĐĐH biểu thị theo quy định của ký hiệu bản đồ địa hình tỷ lệ tương ứng. Các yếu tố nội dung phải thể hiện trên BĐĐH gồm: 1.3.1 Các yếu tố cơ sở toán học Các yếu tố cơ sở toán học phải thể hiện trên bản đồ gốc dạng số bao gồm: khung mảnh bản đồ và các yếu tố trình bày ngoài khung (trừ phần giải thích ký hiệu); lưới kilômét (bao gồm cả lưới kilômét của múi kề cận nếu mảnh bản đồ nằm trong độ phủ giữa hai múi); lưới kinh, vĩ độ; các điểm toạ độ và độ cao quốc gia còn tồn tại trên thực địa; các điểm toạ độ và độ cao chuyên dụng được sử dụng khi thành lập bản đồ. Trên bản đồ gốc dạng số, vị trí điểm góc khung, độ dài cạnh khung, đường chéo khung bản đồ không có sai số so với giá trị lý thuyết. Vị trí điểm tọa độ quốc gia không có sai số so với giá trị tọa độ gốc. Khi biểu thị độ cao của các điểm khống chế trắc địa trừ trường hợp điểm nằm trên vật kiến trúc, đối với tỷ lệ 1:10.000, 1:25.000 nếu chênh cao thực tế giữa mặt đất và mặt mốc vượt quá 0,3 m phải biểu thị cả độ cao mặt đất, độ cao mặt mốc và ghi chú chính xác đến 0,1 m. Thuỷ hệ và các đối tượng liên quan Các yếu tố phải thể hiện BĐĐH bao gồm biển, đảo, hồ, ao, các loại bãi ven bờ; sông, ngòi, suối, mương, máng, kênh rạch; mạch nước khoáng thiên nhiên, giếng nước và các đối tượng khác có liên quan. Các sông, suối có chiều dài trên bản đồ lớn hơn 1 cm; kênh, mương có độ rộng thực tế từ 1 m trở lên và chiều dài trên bản đồ lớn hơn 1 cm đều phải thể hiện. Khi sông, suối, kênh mương trên bản đồ có độ rộng từ 0,5 mm trở lên phải biểu thị bằng hai nét, dưới 0,5 mm biểu thị bằng một nét theo hướng dẫn của ký hiệu tương ứng. Những sông, suối, kênh mương có chiều dài ngắn hơn quy định trên nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vẫn phải thể hiện. Các ao, hồ có diện tích trên bản đồ từ 1 mm2 trở lên đối với tỷ lệ 1:10.000 và 1:25.000 và 2 mm2 trở lên đối với tỷ lệ 1:50.000 đều phải biểu thị. ở những vùng hiếm nước, dân cư thưa thớt, các ao, hồ, giếng nước phải thể hiện đầy đủ. Đối với những vùng có mật độ ao, hồ dày đặc được lựa chọn để biểu thị theo nguyên tắc ưu tiên các đối tượng có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội đối với vùng dân cư hoặc có ý nghĩa định hướng. Đối với sông, hồ và bờ biển, khi đường mép nước cách đường bờ trên bản đồ từ 0,3 mm trở lên phải biểu thị cả đường bờ và đường mép nước. Các loại sông suối có nước theo mùa hoặc khô cạn; đoạn sông suối khó xác định chính xác, đoạn sông suối mất tích, chảy ngầm phân biệt để biểu thị theo quy định của ký hiệu. Hướng dòng chảy của các đoạn sông, suối, kênh rạch có ảnh hưởng của thuỷ triều và các sông, suối, kênh rạch khó nhận biết hướng dòng chảy trong phạm vi mảnh bản đồ đều phải thể hiện. Các loại bờ, bãi, đê, đập và các đối tượng liên quan khác của thủy hệ biểu thị theo hướng dẫn của ký hiệu. 1.3.3 Địa hình Địa hình được thể hiện trên bản đồ bằng đường bình độ, hướng chỉ dốc, điểm ghi chú độ cao và các ký hiệu khác; khoảng cao đều của đường bình độ cơ bản phụ thuộc vào độ dốc địa hình và tỷ lệ của bản đồ địa hình. Trên một mảnh bản đồ chỉ thể hiện địa hình bằng một khoảng cao đều cơ bản, khi khoảng cao đều cơ bản không mô tả hết được dáng địa hình thì sử dụng thêm đường bình độ nửa khoảng cao đều. Trường hợp phải biểu thị chi tiết cá biệt của dáng đất phải dùng đường bình độ phụ có độ cao thích hợp. Các điểm ghi chú độ cao phải chọn vào các vị trí đặc trưng của địa hình như đỉnh núi, đỉnh đồi, yên ngựa, các điểm thấp nhất của thung lũng, đáy hố hoặc ở nơi giao nhau của các đường giao thông, nơi hội tụ của sông, suối. Các dạng đặc biệt của dáng đất gồm khe rãnh xói mòn, sườn dốc đứng, sườn đất sụt, đứt gẫy, sườn sụt lở, sườn đất trượt, vách đá, vùng núi đá, lũy đá, đá độc lập, dòng đá sỏi, bãi đá, miệng núi lửa, cửa hang động, địa hình castơ, gò đống, các loại hố, địa hình bậc thang, bãi cát, đầm lầy biểu thị theo quy định của ký hiệu. 1.3.4 Đường giao thông và các đối tượng liên quan Phải thể hiện các yếu tố như: các loại đường sắt, đường ôtô, đường đất lớn, đường đất nhỏ, đường mòn, đường hàng không, đường giao thông thuỷ...và các đối tượng liên quan đến yếu tố giao thông như ga tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, cầu, cống, phà, đèo, hầm ... Hệ thống giao thông trong vùng dân cư tùy từng trường hợp cụ thể có thể lựa chọn lấy bỏ nhưng phải bảo đảm thể hiện được đặc trưng chung của vùng và tính hệ thống của mạng lưới giao thông. Trên BĐĐH thì mạng lưới đường xá được thể hiện tỉ mỉ về khả năng giao thông và trạng thái của đường. Mạng lưới đường xá thể hiện chi tiết hoặc khái quát tuỳ thuộc vào tỷ lệ bản đồ. 1.3.5 Dân cư và các đối tượng kinh tế, văn hoá, xã hội Các điểm dân cư là một trong các yếu tố quan trọng của BĐĐH, trên bản đồ có các loại dân cư sau đây: các điểm dân cư đô thị (thành phố, thị xã, thị trấn), các điểm dân cư nông thôn (làng, xóm, bản) và các điểm dân cư nông thôn nhưng có kiến trúc kiểu đô thị (thị tứ, khu tập thể, cơ quan, khu công nghiệp...). Các điểm dân cư này biểu thị bằng các ký hiệu nhà độc lập, làng, khối nhà. Đồ hình vùng dân cư và nhà trong vùng dân cư thể hiện theo hướng dẫn của ký hiệu. Đối với vùng dân cư nông thôn phải thể hiện thực phủ nếu độ che phủ của tán cây lớn hơn 20%. Các mảng thực vật, ô đất trống, ô đất canh tác trong khu dân cư có diện tích trên bản đồ từ 4 mm2 trở lên đều phải thể hiện. Tên gọi của vùng dân cư là tên chính thức được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định thì thực hiện theo các văn bản quản lý hành chính của UBND cấp có thẩm quyền. Trên bản đồ phải xác định và biểu thị số hộ của đơn vị hành chính cấp xã. Các đối tượng kinh tế, văn hoá, xã hội được thể hiện theo quy định sau: a) Các đối tượng kinh tế, văn hoá, xã hội có đồ hình vẽ được theo tỷ lệ bản đồ phải thể hiện đầy đủ. b) Các đối tượng không vẽ được theo tỷ lệ bản đồ thì chọn lọc để biểu thị, ưu tiên những đối tượng có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, văn hóa, lịch sử đối với vùng dân cư hoặc có ý nghĩa định hướng. c) Ghi chú tên gọi đối với các đối tượng có tên khi độ dung nạp của bản đồ cho phép. Đối với các tuyến đường dây, chỉ thể hiện những đường dây truyền tải điện lớn có ý nghĩa liên vùng, quốc gia. Các loại đường dây khác thể hiện khi có yêu cầu. Các loại đường ống dẫn trên BĐĐH thể hiện theo quy định của ký hiệu. Thành lũy và tường rào biểu thị theo quy định của ký hiệu. 1.3.6 Thực vật Trên bản đồ phải thể hiện các loại thực vật tự nhiên (rừng tự nhiên, rừng thưa cây rải rác, rừng cây bụi...) và cây trồng (cây trồng thân gỗ, cây trồng thân dừa - cọ, cây trồng thân bụi, cây trồng thân dây và cây trồng thân cỏ) theo phân loại và quy định của ký hiệu bản đồ địa hình tỷ lệ tương ứng. Các vùng thực vật có diện tích từ 15 mm2 trên bản đồ phải phân biệt để biểu thị theo quy định của ký hiệu. Trường hợp trên diện tích đo vẽ có nhiều loại thực vật cần phải phối hợp để biểu thị thì cho phép phối hợp không quá 3 loại thực vật đặc trưng nhất. Đối với rừng hỗn hợp chỉ biểu thị hai loại cây chính mà mỗi loại chiếm tỷ lệ từ 40% trở lên. Các cây và cụm cây độc lập chỉ biểu thị khi có ý nghĩa định hướng. Ranh giới thực vật đối với tỷ lệ 1:25.000 không cần phân biệt. 1.3.7 Biên giới quốc gia, địa giới hành chính Ranh giới hành chính các cấp được thể hiện theo nguyên tắc chung là phải vẽ theo tài liệu chính thức của Nhà nước đã được công bố. Biên giới quốc gia lấy theo tài liệu của Ban Biên giới (Bộ Ngoại giao). Ngoài đường biên giới quốc gia trên các bản đồ địa hình còn phải biểu thị các địa giới của các cấp hành chính các cấp theo đúng và thống nhất với các tài liệu pháp lý của nhà nước về biên giới và địa giới hành chính. Trường hợp các cấp địa giới trùng nhau thì thể hiện địa giới hành chính của cấp cao nhất. Ranh giới các khu cấm, ranh giới sử dụng đất, ranh giới thực vật khi biểu thị phải khép kín. Những tường rào kiên cố ổn định ngoài vùng dân cư, bao quanh vùng dân cư, bao quanh các khu vực lớn (nhà máy, xí nghiệp, các khu chế xuất, bến cảng, sân bay...) phải phân biệt để thể hiện, khi thể hiện có lựa chọn lấy bỏ. 1.3.8 Ghi chú địa danh và các ghi chú cần thiết khác Ghi chú địa danh trên bản đồ thực hiện theo quy định của pháp luật, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định thì thực hiện theo các văn bản quản lý hành chính của UBND cấp có thẩm quyền. Ghi chú tên, ghi chú giải thích, ghi chú số liệu và các ghi chú khác trên bản đồ thực hiện theo quy định của ký hiệu và quy định kỹ thuật số hóa bản đồ địa hình tỷ lệ tương ứng. Như vậy, ta thấy rằng BĐĐH đã sử dụng hệ thống ký hiệu để thể hiện tất cả các yếu tố địa vật trên bề mặt Trái đất; với mỗi tỷ lệ khác nhau thì độ lớn, kích thước của các ký hiệu cũng khác nhau. Với hệ thống ký hiệu thể hiện trên bản đồ này mà chúng ta có thể sử dụng bản đồ vào những mục đích khác nhau theo yêu cầu của người sử dụng. Độ chính xác của bản đồ địa hình Độ chính xác của BĐĐH được quy định theo quyết định số 15/2005/QĐ-BTNMT ngày 13 tháng 12 năm 2005 về “Quy định kỹ thuật thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ 1:10.000, 1:25.000 và 1:50.000 bằng công nghệ ảnh số” của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cụ thể với bản đồ tỷ lệ
Luận văn liên quan